dạt lại trong tai mình, anh kiên nhẫn chờ nhưng Tuyết không ngoái nhìn
cha.
Năm 1951, lần đầu tiên đến cổng trường của Tuyết lúc trời gần đứng bóng,
dưới nắng trưa Sài Gòn đổ lửa, Joseph cũng kiên nhẫn đứng chờ, trên tay
cầm một tấm ảnh của Tuyết do Lan đưa. Nhờ tấm ảnh ấy, Joseph dễ dàng
nhận ra con gái. Anh lật đật băng ngang con đường trước trường, lách mình
qua một đoàn xích-lô vào thời đó đã đạp loanh quanh đón khách trong
thành phố, thay cho xe kéo cổ lổ.
Khi Joseph tới gần, chạm vào cánh tay đứa con gái mười bốn tuổi, khuôn
mặt của Tuyết cau lại với vẻ thật sự cảnh giác. Vẻ mặt ấy khiến Joseph nhớ
lại tia nhìn e sợ chợt lóe lên trong hai con mắt bừng bừng sốt của Tuyết bên
bờ ao làng đầy bùn nơi cực bắc Trung kỳ sáu năm về trước khi lần đầu tiên
gặp anh. Nhưng ngoài vẻ cảnh giác ấy, không còn dấu hiệu nào khác gợi
cho Joseph nhớ tới đứa bé gái tuyệt vọng sắp chết đói được anh thuở đó ôm
chặt vào lòng với trái tim đập rộn ràng của người cha tìm thấy đứa con thất
lạc.
Sau đó, cứ mỗi lần đến thăm con, Joseph lại đứng ở phía lề đường đối diện
với cổng trường, đưa tay lên vẫy và chờ đợi. Trong những lần hai cha con
mới gặp nhau, Tuyết miễn cưỡng tách khỏi đám bạn và băng qua đường
chào đón cha. Đôi khi hai cha con tản bộ tới Thảo Cầm Viên hoặc đi loanh
quanh trong Vườn Ông Thượng mà lúc này có tên mới là vườn Tao Đàn,
cách dinh thống đốc cũ một quãng, nơi anh gặp Lan lần đầu lúc nàng mới
mười tuổi.
Rồi tới một giai đoạn Tuyết bắt đầu hoàn toàn không ngó ngàng đến cha dù
Joseph vẫn đứng chờ bên kia cổng trường. Hôm bắt đầu xảy ra tình trạng
đó là vào dịp Sài Gòn chuẩn bị đón tết Nguyên đán. Cảm thấy ngạc nhiên,
anh lật đật đi theo con gái. Tuyết cố tình dẫn anh lượn tới quành lui không
biết bao nhiêu lần giữa hàng chục quầy bán hoa của chợ hoa xuân đông đúc
trên Đại lộ Charner thẳng trước Tòa Thị Chính, bên kia Bồn Kèn. Sau
cùng, anh hoa mắt và nó với đám bạn cười nói khúc khích rộn ràng ấy biến
mất lúc nào không biết.
Từ lần đó trở đi, nếu thấy Tuyết làm như không nhận ra sự có mặt của cha