Trang Tử và Nam Hoa Kinh
Nguyễn Hiến Lê
Tạo Ebook:
Nguyễn Kim Vỹ
Nguồn truyện: vnthuquan.net
Quan Doãn bảo: “Mình không có chủ kiến, cứ thuận theo tính tự nhiên của vật thì hình thái của vật
sẽ hiện rõ; khi mình hành động thì nhƣ dòng nƣớc, khi mình tĩnh thì nhƣ tấm gƣơng. Cảm ứng với
tiếng vang dội lại, lòng nhƣ hƣ vô, thanh tĩnh, tịch mịch, hoà hợp với vật mà không cạnh tranh – còn
nhƣ nếu muốn đƣợc thì mất – không ở trƣớc ngƣời mà luôn luôn theo sau ngƣời”.
Lão Đam bảo: “Biết nhƣ con trống mà giữ nhƣ con mái, làm khe nƣớc cho thiên hạ, biết vinh mà giữ
nhục, làm cái hang cho thiên hạ” 1610 [27] . Mọi ngƣời đều tranh nhau tới trƣớc, riêng ông ở lại phía
sau. Ông bảo: “Tôi cam chịu sự nhục trong thiên hạ”. Mọi ngƣời đều cầu cái “thực”, riêng ông giữ
cái “hƣ”. Vì ông [tri túc] không chất chứa, nên có dƣ. Ông sống ung dung an thích nên không bị tổn
thƣơng. Ông vô vi và chê cƣời bọn khéo léo. Mọi ngƣời đều cầu hạnh phúc, riêng ông chịu uốn mình
để đƣợc an toàn. Ông bảo: “Chỉ cầu tránh đƣợc tai hoạ”. Ông coi sự tinh thâm là căn bản, sự kiệm
ƣớc là cƣơng kỉ, bảo: “Cứng rắn sẽ bị huỷ hoại, nhọn thì sẽ bị cùn”. Ông khoan dung với vạn vật,
không xâm lấn ai cả.
Tuy hai ông ấy chƣa đạt tới cảnh giới cực cao của Đạo, nhƣng cũng là những bậc chân nhân hiểu
rộng của thời cổ.
8
Thanh tĩnh, vô hình mà biến hoá hoài. Sống ƣ? Chết ƣ? Trời đất chỉ là một ƣ? Thần minh đi đâu?
Ngƣời ta mang nhiên (không biết gì cả) đi về đâu? Rồi hốt nhiên tới đâu? Vạn vật bao la trong vũ trụ
mà không có vật nào đáng cho ta qui về cả. Đạo thuật của cổ nhân có chủ trƣơng đó. Trang Chu
đƣợc nghe thuyết đó thấy thích rồi diễn những thuyết viễn vong vô cứ, nhƣng lời lẽ hƣ vô, không đầu
đuôi, những nghị luận phóng khoáng nhƣng không thiên lệch, vì ông không nhìn một cách phiến
diện. Ông cho rằng thiên hạ hôn mê hỗn trọc, không diễn bằng những lời nghiêm trang đƣợc, cho
nên dùng những lời biến hoá vô định để suy diễn tình lí của vạn vật, dẫn chứng những “trọng ngôn”
để ngƣời ta tin là thực, dùng những “ngụ ngôn” 1611 [28] để khai triển học thuyết (hoặc mở mang
tâm ý ngƣời khác).
Riêng ông hoà hợp với tinh thần của trời đất, nhƣng không khinh thị vạn vật, không khen không chê,
sống yên ổn với ngƣời đời. Sách ông viết tuy tân kì, đặc biệt, nhƣng uyển chuyển, không hại cho đại
Đạo. Văn từ của ông chỗ hƣ chỗ thực mà hoạt kê, kì ảo, thú vị. Đạo đức của ông sung mãn không