coi mình như một người giám sát trung lập và là người nâng tầm văn minh
đối với nhiều quốc gia và dân tộc. Mãi tới năm 1888, một nhà cầm quyền
hàng đầu của Anh mới tuyên bố.
Không có và chưa bao giờ tồn tại một Ấn Độ hay thậm chí bất kỳ đất
nước Ấn Độ nào, theo bất kỳ quan điểm nào của châu Âu, có được bất kỳ
sự thống nhất nào xét về mặt vật lý, chính trị, xã hội, hay tôn giáo… Với
nhiều lý do và khả năng, các bạn có thể mong chờ một thời điểm khi một
quốc gia duy nhất sẽ thay thế vị trí của các quốc gia khác nhau ở châu Âu.
Sau cuộc nổi loạn, với việc quyết định quản lý Ấn Độ như một bộ
phận duy nhất của hoàng gia, Anh đã rất cố gắng biến một Ấn Độ như vậy
trở thành hiện thực. Các vùng khác nhau được liên kết bằng các tuyến
đường sắt và một ngôn ngữ chung, tiếng Anh. Những vinh quang của nền
văn minh Ấn Độ cổ xưa được nghiên cứu và biên chép lại, những người Ấn
Độ ưu tú được đào tạo về tư tưởng và các thiết chế của Anh. Trong quá
trình đó, Anh đánh thức lại ở Ấn Độ ý thức rằng nước này là một thực thể
duy nhất dưới sự cai trị của ngoại bang, và khơi dậy cảm giác rằng để đánh
bại ảnh hưởng ngoại bang thì nó phải tự biến mình thành một quốc gia. Do
đó, những tác động của Anh đối với Ấn Độ tương tự như cách Napoleon
tác động lên Đức, nghĩa là trước đó nhiều quốc gia chỉ được coi như một
thực thể địa lý chứ không phải một quốc gia.
Cách thức Ấn Độ giành được độc lập và tạo lập vai trò của mình trên
thế giới phản ánh những di sản đa dạng này. Ấn Độ đã tồn tại qua nhiều thế
kỷ bằng cách kết hợp giữa việc bảo tồn văn hóa với kỹ năng tâm lý phi
thường trong việc đối phó với những kẻ chiếm đóng. Phản kháng bất bạo
lực của Mohandas Gandhi đối với sự cai trị của Anh có thể diễn ra trước
tiên là do sự nâng cao tinh thần của Mahatma, nhưng nó cũng tỏ ra là cách
hiệu quả nhất để chống lại quyền lực đế quốc vì nó hướng tới các giá trị tự
do cốt lõi của một xã hội Anh tự do. Giống như những người Mỹ hai thế kỷ
trước, người Ấn Độ chứng minh sự độc lập của mình, chống lại những kẻ
cai trị thực dân bằng cách viện dẫn các khái niệm về tự do mà họ đã nghiên
cứu trong các trường học của Anh (bao gồm tại Trường Kinh tế London,