3. Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
4. Bình đẳng và cùng có lợi, và
5. Chung sống hòa bình.
Sự ủng hộ của Ấn Độ đối với các nguyên tắc trừu tượng của trật tự thế
giới đi kèm với một học thuyết về đảm bảo an ninh của Ấn Độ ở cấp độ
khu vực. Giống như khái niệm về vai trò đặc biệt của Mỹ ở Tây Bán cầu
được các nhà lãnh đạo đầu tiên của Mỹ xây dựng trong Học thuyết
Monroe
, trên thực tế Ấn Độ đã thiết lập một vị trí đặc biệt trong khu
vực Ấn Độ Dương nằm giữa Đông Ấn và khu vực Sừng châu Phi
Giống như Anh đối với châu Âu ở thế kỷ 18 và 19, Ấn Độ cố gắng ngăn
chặn sự nổi lên của một thế lực có ảnh hưởng trong khu vực rộng lớn này
của địa cầu. Giống như các nhà lãnh đạo đầu tiên của Mỹ không tìm kiếm
sự chấp thuận của các nước ở Tây Bán cầu đối với Học thuyết Monroe,
trong khu vực lợi ích chiến lược đặc biệt của mình, Ấn Độ thực hiện chính
sách trên cơ sở định nghĩa riêng về một trật tự khu vực Nam Á. Và trong
khi Mỹ và Ấn Độ thường xung đột về quan điểm tiến hành Chiến tranh
Lạnh sau sự sụp đổ của Liên Xô, những quan điểm này phần lớn đã và
đang tương đồng xét trong khu vực Ấn Độ Dương và các vùng ngoại vi của
khu vực này.
Chiến tranh Lạnh kết thúc, Ấn Độ được giải thoát khỏi nhiều áp lực
đối nghịch nhau và một số tư tưởng say mê chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ
cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán vào năm 1991 và được hỗ trợ bởi
một chương trình của IMF, Ấn Độ bắt tay vào cải cách kinh tế. Ngày nay,
các công ty Ấn Độ dẫn đầu một số ngành công nghiệp lớn của thế giới.
Hướng đi mới này được phản ánh trong tư thế ngoại giao của Ấn Độ, với
các quan hệ đối tác mới trên toàn cầu, đặc biệt trên khắp châu Phi, châu Á,
và vai trò của Ấn Độ trong các tổ chức kinh tế và tài chính đa phương được
thế giới đánh giá cao. Bên cạnh ảnh hưởng kinh tế và ngoại giao ngày càng
tăng, Ấn Độ đã tăng cường đáng kể sức mạnh quân sự của mình, bao gồm
cả lực lượng hải quân và kho dự trữ vũ khí hạt nhân. Và trong một vài thập