Áo và cộng đồng nói tiếng Đức của Cộng hòa Tiệp Khắc trong việc hợp
nhất với Đức Quốc xã vào năm 1938, hay việc Nhật Bản dựng lên một Mãn
Châu được cho là tự quyết (“Mãn Châu quốc”) vào năm 1932 từ vùng
Đông bắc Trung Quốc? Liệu những quy định và quy tắc, bản thân chúng, là
trật tự quốc tế hay chúng là bộ khung trên đỉnh của một cấu trúc địa chính
trị có khả năng của – trên thực tế đòi hỏi – một sự quản lý phức tạp hơn?
“Ngoại giao cũ” đã tìm cách để đối trọng giữa những lợi ích của các
quốc gia đối địch với cảm xúc dân tộc chủ nghĩa trái ngược trong trạng thái
cân bằng giữa các lực lượng cạnh tranh lẫn nhau. Trên tinh thần đó, nó đã
đưa Pháp quay lại với trật tự châu Âu sau thất bại của Napoleon, mời nước
này tham gia Hội nghị thành Vienna trong khi thậm chí vẫn đảm bảo rằng
nước này sẽ bị quần chúng vây quanh để kìm chế bất kỳ cám dỗ tự đại nào
trong tương lai. Đối với ngoại giao mới, hứa hẹn thiết lập lại trật tự các vấn
đề quốc tế dựa trên các nguyên tắc đạo đức chứ không phải các nguyên tắc
chiến lược, không tính toán nào như vậy có thể được chấp nhận.
Điều này đã đặt các chính khách của năm 1919 vào một vị thế bấp
bênh. Đức không được mời tham dự hội nghị hòa bình, và trong hiệp ước
(là kết quả của hội nghị) được coi là kẻ xâm lược duy nhất của cuộc chiến
và phải chịu toàn bộ gánh nặng tài chính và đạo đức của cuộc xung đột.
Tuy nhiên, đối với miền Đông Đức, các chính khách tại Versailles vật lộn
để hòa giải giữa nhiều dân tộc tuyên bố quyền tự quyết cho dân tộc mình
trên cùng những vùng lãnh thổ. Điều này đã làm cho một số quốc gia yếu,
có nhiều dân tộc, phải sống rải rác ở giữa hai cường quốc lớn là Đức và
Nga. Trong mọi trường hợp, có quá nhiều quốc gia để khiến độc lập cho tất
cả trở thành hiện thực hoặc an toàn; thay vào đó, một nỗ lực do dự để dự