nơi các nhà lãnh đạo tương lai của Ấn Độ tiếp thu nhiều ý tưởng gần giống
với xã hội chủ nghĩa).
Ấn Độ hiện đại quan niệm nền độc lập của mình như là thắng lợi
không chỉ của một quốc gia mà còn là của các nguyên tắc đạo đức phổ
quát. Và cũng giống như các Tổ phụ Lập quốc của Mỹ, các nhà lãnh đạo
đầu tiên của Ấn Độ coi các lợi ích quốc gia ngang với sự chính trực đạo
đức. Nhưng các nhà lãnh đạo Ấn Độ đã hành động trên các nguyên tắc của
Hòa ước Westphalia trong vấn đề mở rộng các thể chế trong nước, và
không mấy quan tâm tới việc thúc đẩy dân chủ và thực hành nhân quyền
trên thế giới.
Là Thủ tướng của một nhà nước mới giành được độc lập, Jawaharlal
Nehru
cho rằng nền tảng chính sách đối ngoại của Ấn Độ là lợi ích
quốc gia của Ấn Độ, chứ không phải bản thân sự hữu nghị quốc tế hay việc
gây dựng các hệ thống phù hợp trong nước. Năm 1947, trong một bài phát
biểu không lâu sau khi giành được độc lập, ông giải thích,
Dù chính sách nào được đưa ra đi nữa, nghệ thuật tiến hành các hoạt
động đối ngoại của một quốc gia nằm ở chỗ tìm ra những gì có lợi nhất
cho đất nước. Chúng ta có thể nói chân thành về thiện chí quốc tế. Nhưng
phân tích đến tận cùng, một chính phủ hoạt động vì lợi ích của đất nước
mà nó điều hành và không một chính phủ nào dám làm điều gì rõ ràng gây
bất lợi cho quốc gia của mình trong ngắn hạn hay dài hạn.
Kautilya (và Machiavelli) cũng không thể diễn đạt tốt hơn thế.
Nehru và các vị thủ tướng tiếp theo, bao gồm cả con gái của ông, một
Indira Gandhi
kiên cường, tiếp tục củng cố vị thế của Ấn Độ như là
một phần trong trạng thái cân bằng toàn cầu bằng cách nâng chính sách đối
ngoại của mình thành một biểu hiện của thẩm quyền đạo đức vượt trội của
Ấn Độ. Ấn Độ chứng minh lợi ích quốc gia riêng của mình như một sự
nghiệp được khai sáng độc đáo, rất giống những gì Mỹ đã làm cách đó gần
200 năm. Nehru và sau đó là Indira Gandhi, Thủ tướng Ấn Độ trong các
giai đoạn 1966-1977 và 1980-1984, đã thành công trong việc xây dựng