Khi quan niệm não người trưởng thành là bất biến được cô đúc thành một
giáo lý, bản thân nó biến thành một dạng “thuyết thần kinh học hư vô”, theo
lời bác sĩ tâm thần Norman Doidge. Bởi nó tạo ra “cảm giác rằng điều trị
các vấn đề về não là vô hiệu hoặc không đảm bảo”, Doidge giải thích, nó
làm những người có bệnh tâm thần hoặc chấn thương não ít có hy vọng vào
điều trị, chưa nói tới chữa khỏi. Cùng lúc quan điểm đó “lan đi trong cộng
đồng”, nó “làm nghèo quan điểm tổng thể của chúng ta về bản chất con
người. Bởi bộ não không thể thay đổi, bản chất con người vốn xuất phát từ
đó cũng hẳn nhiên cố định và không thể thay đổi”.
[32]
chỉ có mục ruỗng. Chúng ta cũng mắc kẹt trong khối bê-tông đông đặc các
tế bào thần kinh của chúng ta - hay ít nhất là trong khối bê-tông đông đặc
những kiến thức chúng ta được học.
NĂM 1968, TÔI LÀ MỘT CẬU BÉ chín tuổi còn đùa nghịch trong đống
gỗ gần nhà.Marshall McLuhan và Norman Mailer đang tranh luận trên tivi
về khí a cạnh trí tuệ và đạo đức của cái Mailer gọi là “bước tăng tốc của loài
người vào thế giới siêu công nghệ”.
[33]
chiếu lần đầu, khiến khán giả mụ người đi, sửng sốt hoặc chí ít là thấy nôn
nao.Trong khi đó, tại một phòng thí nghiệm yên tĩnh của Đại học Wisconsin
ở Madison, Michael Merzenich đang khoét lỗ trên sọ một con khỉ.
Hai mươi sáu tuổi, Merzenich vừa nhận bằng tiến sĩ sinh lý học của Đại học
Johns Hopkins, nơi ông theo học nhà thần kinh học tiên phong Vernon
Mountcastle. Ông vừa tới Wisconsin để làm đồ án sau tiến sĩ về bản đồ não.
Từ nhiều năm chúng ta đã biết mỗi vùng trên cơ thể người đều tương ứng
với một vùng trên vỏ não, lớp nhăn ngoài cùng của bộ não. Khi tế bào thần
kinh nào đó bị kích thích - ví dụ bị chạm hoặc châm kim - chúng phát một
xung điện qua tủy sống tới một cụm tế bào thần kinh nhất định trên vỏ não
và chuyển cái chạm hay châm đó thành cảm giác có ý thức. Vào những năm
1930, nhà phẫu thuật thần kinh người Canada Wilder Penfield đã dùng các