và hàng tồn kho. Nợ ngắn hạn bao gồm các khoản phải thu và các nghĩa vụ ngắn
hạn khác. Tuy nhiên, chúng không phải là những khoản mục biệt lập trên bảng cân
đối kế toán; chúng đại diện cho những giai đoạn khác nhau của chu kỳ sản xuất và
những dạng thức khác nhau của vốn lưu động.
Để hiểu được điều này, hãy hình dung một công ty sản xuất nhỏ. Mỗi chu kỳ
sản xuất đều bắt đầu với tiền mặt, đây là thành phần đầu tiên của vốn lưu động.
Công ty lấy tiền mặt và mua một số nguyên vật liệu thô. Quá trình này tạo ra tồn
kho nguyên vật liệu thô – thành phần thứ hai. Sau đó, nguyên vật liệu thô được đưa
vào trong hoạt động sản xuất, tạo ra tồn kho sản phẩm đang xử lý, và cuối cùng là
tồn kho thành phẩm, một thành phần “tồn kho” khác của vốn lưu động.
Cuối cùng, doanh nghiệp bán hàng hóa cho khách hàng, tạo ra các khoản phải
thu, đây là thành phần thứ ba và cũng là thành phần cuối cùng của vốn lưu động
(Hình 26-1). Chu kỳ của ngành dịch vụ cũng tương tự, nhưng đơn giản hơn. Chẳng
hạn, công ty của hai chúng tôi – Viện Business Literacy – có một phần là kinh
doanh dịch vụ đào tạo. Chu kỳ hoạt động là toàn bộ thời gian từ khâu phát triển tài
liệu đào tạo ban đầu, đến hoàn tất các khóa đào tạo, và cuối cùng là thu hóa đơn.
Chúng tôi càng hoàn thành dự án và theo sát việc thu công nợ hiệu quả bao nhiêu,
khả năng sinh lời và dòng tiền của chúng tôi càng khỏe mạnh bấy nhiêu. Trên thực
tế, cách tốt nhất để làm ra tiền trong ngành dịch vụ là cung cấp dịch vụ nhanh
chóng, và sau đó thu công nợ nhanh hết sức có thể. Xuyên suốt chu kỳ này, vốn lưu
động liên tục thay đổi dạng thức. Nhưng số lượng vẫn giữ nguyên cho đến khi hệ
thống có thêm tiền mặt – từ, chẳng hạn như, vay nợ hoặc đầu tư vốn chủ sở hữu.
Tất nhiên, nếu doanh nghiệp mua chịu nhiều, một số lượng tiền mặt nhất định
sẽ vẫn còn nguyên vẹn – nhưng như vậy sẽ có một khoản mục “khoản phải trả”
tương ứng được tạo ra bên phía nợ phải trả của bảng cân đối kế toán. Vì vậy, để có
được bức tranh chính xác về vốn lưu động của doanh nghiệp, ta phải trừ khoản mục
này khỏi ba thành phần còn lại.
Tựu chung lại, nguồn vốn lưu động là bao nhiêu thì sẽ phù hợp với một doanh
nghiệp? Ta khó tìm được câu trả lời đơn giản cho câu hỏi này. Doanh nghiệp nào
cũng cần có đủ tiền mặt và hàng tồn kho để duy trì hoạt động. Doanh nghiệp càng
lớn và phát triển càng nhanh, thì có thể càng cần nhiều vốn lưu động. Nhưng thách
thức thật sự ở đây là làm sao sử dụng vốn lưu động một cách hiệu quả. Ba tài khoản
vốn lưu động mà các nhà quản lý không làm về tài chính thật sự tác động đến là