phạm vi chuyên môn của chúng cũng vậy, và có khuynh hướng tụ lại quanh
học thuật thời thượng đương thời (đôi khi còn có tính địa phương nữa) - sự
thể phải như vậy, vì thường là chính các phân khoa đó tạo ra điều đó. Ngoài
ra, vì những lí do hiển nhiên, các lớp học dành cho những sinh viên chưa tốt
nghiệp khá là ít, do đó buộc phải có tính tuyển chọn với nguy cơ rõ rành
rành là chỉ có vẻ bề ngoài, hời hợt. Như thế giả định đương nhiên rằng triết
học là thứ mà các phân khoa triết học ở đại học giảng dạy, dù chắc chắn tôi
không thể nói điều đó là sai, giả định đó hạn hẹp và đánh lạc hướng người
khác, do vậy cần phải né tránh.
Cuốn sách này được gọi là một lược dẫn vào triết học. Nhưng, như tôi
hi vọng là giờ đây đã rõ ràng, rằng một cách đúng đắn tôi không thể dẫn bạn
nhập vào triết học, bởi lẽ bạn đã ở trong triết học rồi. Một cách đúng đắn, tôi
cũng không thể dẫn bạn nhập vào triết học, bởi lẽ có quá nhiều triết lí. Cũng
như tôi không thể ‘chỉ cho bạn thấy Luân Đôn’. Tôi có thể chỉ cho bạn vài
mẩu nhỏ của nó, có thể là nhắc đến vài thứ hấp dẫn nhất của nó, và để mặc
bạn với một tấm bản đồ thành phố và với vài thông tin về những chuyến
tham quan thành phố có hướng dẫn. Đó gần như là điều tôi đề xuất để đến
với triết học.
Ở đầu Chương 1, tôi đã nói về ba vấn đề triết học, đúng ra phải gọi là
ba loại hoặc ba hạng vấn đề. Các Chương 2, 3, và 4 sẽ giới thiệu, từ văn bản
cổ điển, một thí dụ về mỗi loại. Bằng cách tiến dần từ những đường lối tư
duy rất quen thuộc trong loại thứ nhất tới điều mà hầu hết người đọc sẽ thấy
là hoàn toàn xa lạ trong loại thứ ba, ba thí dụ đó cũng minh họa (dù không
đầy đủ) một chủ đề khác của dẫn nhập này: phạm vi của cái mới lạ mà ta
nhận ra trong triết học. Tôi đã nói đi nói lại về việc khó mà tránh khỏi triết
lí. Nếu đúng vậy, chúng ta có thể trông đợi việc phát hiện một loại triết học
nào đó ít nhiều ở bất cứ nơi nào chúng ta để mắt tới. Như để khẳng định
điều đó, thí dụ thứ nhất của chúng ta đến từ Hi Lạp vào thế kỉ 4 TCN, thí dụ
thứ hai của chúng ta đến từ Scotland vào thế kỉ thứ 18, và thí dụ thứ ba của
chúng ta đến từ Ấn Độ, được viết bởi một tu sĩ Phật giáo vô danh vào một