chỗ, và ngay cả những nỗ lực của mình khi tư duy về điều có thể là ở trên
đường phân cách đó cũng phải chịu sự thất bại: chúng ta không ở vị thế cao
đến thế.
Như thế Hume có nhiều điều để nói về vai trò của lí trí trong cuộc sống
của chúng ta; ông biện luận rằng nó không hề lớn lao, hoặc là thuộc loại mà
những đối thủ của ông thường cho là vậy. Hệ quả của điều này là phần lớn
những gì mà họ cho rằng do lí trí thực hiện, thực ra là do một cái gì khác: do
quy trình vận hành của bản chất con người, một đề tài mà ông triển khai
trong một lí thuyết có quy mô rất rộng, một tác phẩm về cái mà thời nay
chúng ta gọi là khoa học ở buổi ban đầu về nhận thức. Nhưng khi Hume viết
thẳng về đề tài niềm tin tôn giáo (mà ông viết khá nhiều, xem Thư mục) thì
ông xếp xó cái lí thuyết lớn đó, và chỉ sử dụng lẽ phải thông thường cùng sự
quan sát con người thường nhật. Vì vậy, trong bài luận của ông Of Miracles
(Về những phép màu), chúng ta chứng kiến một đoản văn triết học cổ điển
khác, kiểu tác phẩm triết học khởi đầu từ chính ngưỡng của chúng ta, nếu
không muốn nói là tồn tạo ngay trong phòng chúng ta.
Tuy nhiên, chúng ta không được giả định rằng mọi chuyện ở đây đều
hoàn toàn quen thuộc. Hume sắp biện giải rằng nếu chúng ta tin rằng một
phép mầu đã xảy ra, khi chứng cứ của chúng ta chủ yếu chỉ là những tường
thuật của kẻ khác (như hầu hết trường hợp đều là vậy); là chúng ta duy trì
niềm tin đó trái ngược với lí trí, vì những lí lẽ của chúng ta để tin rằng cái
được cho là phép mầu đã không xảy ra ít nhất cũng mạnh bằng những lí lẽ
của chúng ta để giả định rằng phép mầu đã xảy ra; thực ra, ông nghĩ rằng
chúng luôn luôn mạnh hơn. Đây là một chủ đề mà ông cần tiếp cận một cách
thận trọng; vì hai lí do. Thứ nhất, không đầy hai mươi năm trước khi ông
cho ấn hành Of Miracles, một người tên Thomas Woolston đã phải trải qua
vài năm cuối đời trong nhà tù vì đã dám nói rằng những tường thuật trong
Kinh thánh về sự phục sinh của Chúa Jesus không phải là chứng cứ thỏa
đáng để tin vào một sự kiện không chắc xảy ra như vậy; điều mà giờ đây
Hume sắp đề cập không phải là không hề có liên quan. Thứ hai, Hume thực
sự muốn thay đổi cách mà những người đương thời, đặc biệt là những đồng