trong những kiến thức của ta như những sở hữu của ta. Trái lại,
trước huyền nhiệm của hiện hữu, chúng ta kính sợ và tôn trọng.
Kinh nghiệm thường ngày cho thấy: Khi chúng ta đến một nơi xa
lạ, ngủ trong căn phòng lạ, chúng ta cảm thấy rờn rợn. Chúng ta
cảm thấy thế, vì chúng ta không thấu triệt được bộ mặt của nơi
đó, của căn phòng đó. Những cảm giác rờn rợn kia chỉ là một
hình ảnh mờ nhạt của niềm tôn kính mà triết gia cảm thấy trước
huyền nhiệm của hiện hữu: Sự tôn kính này gần giống như một
niềm tin tôn giáo, và riêng đối với Marcel sự tôn kính này đã dẫn
tới tình cảm tôn giáo (sentiment religieux) và đức tin Công giáo.
Ricoeur cho rằng, mặc dầu triết Marcel khác xa triết thánh Tô-ma,
nhưng triết Marcel cũng xây trên hiện hữu như triết thánh Tô-ma.
Chúng ta cũng nên chú ý điều này: Marcel đề cao hiện hữu và đã
đồng hóa phần nào hiện sinh với hiện hữu. Đó là điểm mà các
học giả đều lưu ý và riêng Troisfontaines đã nhân đấy để đặt tên
cho bộ sách của ông nghiên cứu về Marcel là De l’existence à
l’eetre, la philosophie de Gabriel Marcel” (Tự hiện sinh đến hiện
hữu, triết học của Gabriel Marcel). Cũng vì thế, ta thấy Marcel
chối không nhận danh từ triết hiện sinh và ông nhất định tự xưng
là tân phái Socrate (Socrate, là người cha sinh ra triết học về hữu
thể của Platon và Aristote).
b) Huyền nhiệm tình yêu.
Marcel khước từ chữ Tôi; ông chỉ công nhận chữ Chúng ta
thôi. Theo ông, con người không bao giờ sinh hoạt một mình:
Thành thử những nguyên tắc của Descartes dựa trên “Tôi suy
tưởng” đều giả tạo. Hơn nữa, suy tưởng không phải là dữ kiện
nguyên thủy. Sự kiện nguyên thủy là tình yêu. Về điểm này,
Marcel đã viết câu ý nghĩa sau đây: “Tình yêu xét như một thực
tại đối lập với nhục dục, và xét như niềm phối hiệp ta với một
thực tại siêu việt hơn ta, tình yêu đó thực là cái sâu xạ nhất trong