một cách tài tình, nhờ đó ông đưa ra những cái nhìn xoi mói về
những giao tiếp ái tình, xã hội, đạo đức. Người ta có thể nói về
ông: “ông đã đi vào những nẻo đường mới mẻ, ông đã tìm ra
những miền âm u của cõi lòng con người: Ông đã mạnh bạo nhìn
thẳng vào những thực tại mà xưa nay ít người dám bạo dạn tới
gần”. Tóm lại, sự xuất hiện của Sartre giữa thế kỷ hai mươi này
cũng trớ trêu như tiếng sấm giữa buổi mai thanh quang; hiện
tượng đó làm người ta ngơ ngác nhìn nhau. Điềm gì đây? Sao
giữa lúc khoa học đang hợp lý hóa tất cả, từ lãnh vực thẳm sâu
của nguyên tử vật lý đến cảnh tượng éo le do xã hội học, sao
Sartre lại bảo mọi vật đều phi lý? Tất cả các tác phẩm của Sartre
xoay quanh những vấn đề trọng đại nhất của con người: Ý nghĩa
cuộc nhân sinh, ý nghĩa ái tình, ý nghĩa giao tiếp giữa tôi và tha
nhân, ý nghĩa tôn giáo. Sartre đã nghiên cứu những vấn đề đó
với óc thông minh của ông: Đó là lý do làm thanh thiếu niên kính
phục ông như vị huynh trưởng tài ba, và đầy kinh nghiệm; nhưng
ông đề cập đến những vấn đề trọng đại kia với giọng điệu lố lăng
và bất kính của một người thanh niên “đợt sống mới”, bất chấp cổ
truyền và bất chấp luân thường đạo lý: Đó là lý do làm thanh niên
coi Sartre như người của bọn họ, đại diện cho họ để trả thù
những phụ huynh mô phạm. Tất cả những nhận xét trên đây
không ngoài mục đích xác nhận địa vị quan trọng của Sartre trong
tư tưởng triết học hiện đại và ảnh hưởng sâu đậm của ông đối
với thanh niên ngày nay. Tư tưởng hiện sinh của Sartre đã qua
con đường những tiểu thuyết và những kịch bản xâm nhập vào
đại chúng; rồi những bài báo, những buổi diễn thuyết của ông đã
gây nên một bầu không khí “hiện sinh”: Cao bồi hiện sinh, dâm
đãng hiện sinh, tự tử hiện sinh v.v... nhiều thanh thiếu niên có thể
lấy triết hiện sinh để biện hộ cho tất cả mọi hành vi lố lăng của họ:
Họ có lý để thực hiện tất cả những gì họ thích và không thích làm.