người mà thôi. Trái lại triết hiện sinh coi kiện tính là khởi điểm:
Xét về nhân vị, thì khởi điểm này là một con số không. Cần phải
tiến lên, tiến mãi, đừng dừng ở khởi điểm. Cho nên triết hiện sinh
đề cao tự do tính (theo nghĩa triết học trên đây, tự do là do chính
mình). Chính tự do tính giúp ta tự tác thành lấy nhân vị của mình
và hoàn thành nó mỗi ngày mỗi thêm phong phú và giá trị.
Trên đây là tóm tắt lập trường chung của tất cả các khuynh
hướng triết hiện sinh. Tựu trung, lập trường đó là lập trường nhân
vị (Ta sẽ thấy Mounier, cha sinh của thuyết nhân vị, cũng tự xưng
là triết gia hiện sinh và ông kê khai rõ gia phả của ông trong đại
gia đình hiện sinh). Triết học cổ truyền hướng về vũ trụ và bỏ
quên con người; triết hiện sinh chỉ suy nghĩ và tìm hiểu con người
mà thôi, và con người đây không phải là con người phổ quát và
trừu tượng, nhưng là con người hiện sinh. Đã thế, mỗi người đều
có khả năng riêng và hoàn cảnh sinh hoạt riêng, triết lý có nhiệm
vụ giúp con người nhận thức cái vốn đó (kiện tính) để khai thức
cho đến mức toàn hảo (tự do tính).
Hình Thức. Nội dung triết hiện sinh khác nội dung triết cổ
truyền. Hình thức còn khác xa hơn nữa. Tri thức của triết cổ
truyền là biết bản tính sự vật, cho nên ta thấy các tác giả cổ điển
luôn luôn dùng phương pháp phân tích và những câu định nghĩa:
Họ làm thế, vì họ thông hễ biết bản tính sự vật là biết tất cả rồi.
Mà bản tính sự vật là gì? Là cái gì mà tất cả các vật của một loại
đều có như nhau. Thí dụ bản tính con người là “một con vật có lý
trí”. Mà có lý trí thì có suy luận, có suy luận thì biết chọn điều
thiện bỏ điều ác v.v... Tóm lại triết cổ truyền chủ trương con người
có thể biết bản tính sự vật, và tất nhiên cả bản tính con người
nữa. Trái lại triết hiện sinh tuyên ngôn rằng chỉ mình Thượng đế
biết bản tính sự vật, còn chúng ta chỉ có những cái nhìn phiến
diện về sự vật: Nhìn nhiều lần và nhiều chiều hướng khác nhau,