khiến tôi vất vả làm ăn kiếm tiền để xây cất: tuy kiến trúc sư vẽ kiểu, nhưng
ông ta đã vẽ giúp tôi và hoàn toàn theo những nhu cầu của tôi: các người
thợ xây và thợ mộc đã thực hiện cái mẫu nhà đúng theo như kiến trúc sư đã
họa, nhưng họ đã làm khoán cho tôi: chính tôi là người ước mong một cái
nhà như thế, và chính cái ý muốn của tôi đã là căn nguyên để có cái nhà.
Triết học gọi cái ước muốn của tôi như thế là nguyên nhân cứu cánh của
căn nhà.
Một thành ngữ được coi như nguyên tắc khả kính là: “Mọi hành động
đều có mục tiêu” (Omne agens agit propter finem). Điều này đúng cho hành
động của con người và nói chung là tất cả những hữu thể có lý trí: ta không
thể tìm thấy một hành vi nào, dầu nhỏ mọn đến đâu, mà lại không có mục
tiêu. Không có mục tiêu, không có cứu cánh, thì không có thể có bắt đầu
hành động. Cho nên triết học quả quyết rằng cứu cánh là cái đến sau cùng
trong lãnh vực thực hiện, nhưng nó có trước hết trong trật tự sinh hoạt:
thoạt tiên ta có mục tiêu, rồi ta mới tìm những phương tiện thích ứng để
thực hiện. Đó là sinh hoạt của con người, còn như sinh hoạt của vạn vật
trong vũ trụ thì sao? Ta có quyền nghĩ rằng trật tự kỳ diệu của vũ trụ do
hành vi của một trí năng siêu việt nào chăng? Hoặc ta có thể chỉ dùng
những định luật khoa học để giải nghĩa tính cách nhất quán của vũ trụ ? Đó
là vấn đề.
Để nhận định thế nào là một cứu cánh đích thực, Kant đã giúp ta phân
biệt 3 loại cứu cánh: cứu cánh hình thức, cứu cánh tương đối và cứu cánh
tự nhiên. Cứu cánh hình thức là cứu cánh các hình ta vẽ theo những định lý
hình học: không những các điểm của các hình đó, thí dụ hình tròn, có tương
quan chặt chẽ với nhau, mà tất cả những hình khác đặt trong hình tròn cũng
tuân theo những định luật nhất định: chẳng hạn nếu phải vẽ một hình tam
giác với một đáy nhất định và góc đối lập nhất định, vấn đề thật là bất định,
nhưng nếu ta nhớ rằng hình tròn có chứa sẵn tất cả những giải đáp cho
những vấn đề như vậy, thì ta sẽ có thể giải đáp ngay. Các hình tam giác,
hình thang v.v... cũng quy định một số những vấn đề dựa trên các tương
quan như vậy. Không lạ gì Pithagore đã say mê toán học và nghĩ rằng vạn