từ đầu: trước tiên, những cái khả niệm (ở trong một chất thể) phải được thu gom.
Chính lúc đó có trí tuệ thủ đắc (2), nói cách khác: rằng những mô thể (tách rời) có
thể được tư duy, và chính chúng trở thành, theo một cách nào đó, những mô thể
của trí tuệ chúng ta với tư cách là trí tuệ thủ đắc.
Như vậy trí tuệ thủ đắc dùng làm chủ thể, theo cách của nó, cho những mô thể
tách rời, và chính nó là một thứ mô thể cho trí tuệ ở hiển thể. Như thế trí tuệ ở
hiển thể thì giống như một chất thể hay một chủ thể cho trí tuệ thủ đắc, và, ở
hướng ngược lại, trí tuệ ở hiển thể là một mô thể cho yếu tính khác, yếu tính
giống với một chất thể (3).
Bởi đó, bản thể của linh hồn con người hay con người bởi chính trung gian của
cái gì ban cho nó một bản thể (4) luôn luôn tiến gần hơn đến Trí thông minh tác
nhân. Và đó là cứu cánh sau cùng của nó; đó là cuộc đời khác. Bởi vì cuối cùng
con người thủ đắc cái làm cho nó thành một bản thể, nó thủ đắc sự hoàn hảo tối
hậu, đó là hoàn tất trong một bản thể khác hành động khiến cho nó trỏ thành một
bản thể và đó là ý nghĩa của thành ngữ một cuộc đời khác.
Al-Fârâby, De intellectu et intellecto.
1. Nó khác với trí tuệ ở hiển thể bởi chính nguồn gốc của cái khả tri: nơi đây là
những mô thể tách rời, nơi kia là những mô thể trừu tượng.
2. Mục đích của trí tuệ con người không phải là trở nên thông minh hơn mà là
giống với những ý tưởng khả niệm.
3. Trí tuệ khả hữu hay vật chất. Một sự đồng hoá mà Averroès sẽ tố cáo.
4. Nghĩa là trí tuệ thủ đắc, bởi vì hữu thể đích thực là cái khả niệm.