không lên tàu cùng một chỗ với nó, và tôi thấy nhẹ cả người khi nhận ra
thậm chí hắn còn không chọn cùng toa.
“Cô có thể chuyển sang camera trên tàu đó được không? Tôi muốn
xem. Tôi muốn biết điều gì xảy ra trên tàu!” “Nghiện rồi, đúng không?
Không, tôi đã thử nhưng an ninh của hệ thống camera đó rất nghiêm ngặt.
Chúng ta có,” cô ta kiểm ta một ô trên màn hình, “bảy phút nữa cho đến khi
con bé đến Waterloo.” Những ngón tay cô ta gõ nhịp trên mặt bàn.
“Toa tàu rất đông. Không ai cố làm gì trên một toa tàu đông như vậy,”
tôi nói với cả mình lẫn Melissa.
Nếu Katie kêu lên, liệu có ai làm gì đó không? Tôi luôn dạy nó phải
gây tiếng động khi có chuyện gì xảy ra. “Hãy làm ầm lên,” tôi nói với nó.
“Nếu kẻ nào ép vào người con, thì đừng nói riêng với hắn, hãy hô hoán với
tất cả mọi người. Hãy hét lên là ‘Đừng có chạm vào tôi!’ Hãy để cả toa
biết. Họ có thể không làm gì, nhưng con sẽ thấy hắn phải ngừng lại ngay.”
Chỉ mất bốn phút từ Waterloo đến quảng trường Leicester. Tôi biết
vậy bởi Melissa đã nói với tôi, và bởi mỗi giây dài như một giờ. Ngay khi
Katie biến mất vào con tàu tuyến Bắc ở ga Waterloo, Melissa đã chuyển
sang một hình ảnh mới trên màn hình. Ống kính camera giờ đây nhìn thẳng
vào chân cầu thang cuốn dẫn lên quảng trường Leicester.
Chúng tôi im lặng nhìn cho đến khi con bé lại xuất hiện. “Nó đây rồi,”
Melissa chỉ vào Katie. Ngay lập tức, tôi tìm kiếm gã đàn ông đã tiếp cận
con bé trên sân ga, và khi tôi thấy hắn cách nó vài mét phía sau, ngực tôi
thắt lại.
“Gã đàn ông đó...”, tôi nói rồi bỏ lửng. Biết nói gì đây? “Hắn dai như
đỉa vậy, đúng không?”
“Cô có biết hắn là ai không? Hắn từ đâu tới? Bao nhiêu tuổi?” Chính
tôi cũng không hiểu những điều này có gì quan trọng nữa.
“Hồ sơ đã được tải về khoảng hai trăm lần,” Melissa nói. “Hắn có thể
là bất kỳ ai trong số đó.”
Gã đàn ông dấn bước, vượt qua một người phụ nữ với chiếc xe đẩy.
Katie bước lên thang cuốn.