ba mươi tuổi, nhưng đã hói đầu. Hai người gặp nhau trong rạp chiếu phim,
xem một bộ phim nông dân vươn mình, loại phim mà Kỳ Dao ghét nhất,
phải cố ngồi đến cùng. Có những lúc im lặng, nghe rõ tiếng thở của thầy
giáo, có cả tiếng khò khè trong ngực, thầy giáo bị hen. Từ đấy, nàng từ chối
và cảm ơn người làm mối, thấy dù có giới thiệu ai thì cũng không khác ông
giáo kia. Nàng không trách người, chỉ trách số phận mình không may mắn.
Nhìn khói bếp trong hẻm bay lên, nàng nghĩ bụng: liệu còn gì tốt đẹp đến
với mình nữa không? Mọi người thì nói Kỳ Dao kiêu, cũng có người bảo
nàng thủ tiết, nói gì thì Kỳ Dao cũng bỏ ngoài tai, gợi ý gì cũng chỉ để
ngoài tai. Tuy quen biết nhưng vẫn có khoảng cách, âu cũng là bình thường.
Quen biết người trong hẻm Bình An không rõ xa cách bao nhiêu, như nước
đục không rõ có bao nhiêu cá. Quen thuộc trong hẻm Bình An cũng chỉ thế
thôi, không sâu sắc, chỉ bề ngoài, vui vẻ trước mặt, bên trong vẫn cô đơn
lạnh lùng, nỗi cô đơn người không biết, mình cũng không hay. Ngày tháng
vẫn trôi qua. Kỳ Dao nửa mơ hồ, nửa tỉnh táo. Nửa mơ hồ để sống, nửa tỉnh
táo để suy nghĩ. Ban ngày bận với người và công việc, về đêm, tắt đèn, ánh
trăng soi lên rèm cửa sổ, từng bông hoa to đập vào mắt, không nghĩ cũng
phải nghĩ. Đêm trong hẻm Bình An có nhiều suy tư, chẳng qua không hiện
lên những bông hoa to trên rèm cửa sổ như của Kỳ Dao. Nhiều suy nghĩ
chìm sâu trong lòng, như cát đọng. Tất cả đều nung nấu bởi sinh kế, vắt kiệt
mồ hôi, vắt kiệt nước, ngưng kết thành từng mảng, không làm sao tách ra
được. Vương Kỳ Dao chưa đến mức đó, suy nghĩ của nàng còn có cành và
hoa, chợt sáng trong đêm tối hẻm Bình An.
7. Khách quen
Trong những người hay đến chơi nhà Vương Kỳ Dao, có bà Nghiêm vẫn
đến thường xuyên hơn. Bà cũng ở trong hẻm Bình An này, tận trong cùng
hẻm, cổng riêng nhà riêng. Bà chừng ba sáu, ba bảy tuổi, con trai lớn đã
mười chín, học kiến trúc ở trường Đồng Tế. Chồng bà, trước năm bốn chín
là chủ xưởng sản xuất bóng đèn Nhất Bàn, sau khi công tư hợp doanh làm