quá. Công việc làm ăn của chúng tôi ngày càng lụi bại. Chúng tôi mắc nợ.
Tiền dành dụm, đồ đạc bán đi đều trả nợ sạch. Eric mất, tôi đã phấn đấu,
làm việc vất vả để nuôi con. Tôi làm việc liên tục, nhận bất cứ việc gì, lau
thang gác thuê, giặt đủ các loại quần áo, lụa và vải. Nhưng sự đau khổ vẫn
đeo đẳng tôi cho đến bây giờ. Đó là ý Chúa, rồi cuối cùng chắc người sẽ gọi
tôi về bên người. Tôi cũng tin rằng Người sẽ chẳng bỏ rơi con trai tôi đâu.
Nói xong, chị ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau chị thấy trong người dễ chịu hơn. Chị tưởng đã hồi phục
và lại đi làm việc. Vừa bước xuống nước lạnh, chị đã rùng mình và rủn
người ra. Bị chuột rút, chị giơ tay ra bấu víu, nhưng chỉ chơi vơi trên không
thôi. Chị kêu lên tiếng và ngã xuống, nằm lăn ra, đầu gối tì lên bờ, chân
thõng xuống nước; đôi guốc trong có lót rơm cho đỡ lạnh bị dòng nước
cuốn đi. Đó là cảnh tượng mà Martha trông thấy khi mang cà phê đến cho
chị.
Trong lúc đó, thị trưởng cho người gọi chị thợ giặt tới vì có một việc
quan trọng cần báo cho chị. Lúc ấy thì đã muộn, Martha chạy gọi ông thợ
cạo đến chích huyệt. Muộn quá rồi. Chị thợ giặt đáng thương đã qua đời.
Thị trưởng bảo:
- Mụ ấy rượu lắm vào nên mới chết.
Và đây là việc mà ông định bảo chị. Trong thư báo tin em ông chết có
kèm một bản trích tờ di chúc: 600 đồng tiền vàng được dành cho chị thợ
giặt góa chồng, ngày xưa đã ở cho cha mẹ ông. Số tiền này phải trao dần
cho chị hay con chị, nhiều ít tùy theo sự cần dùng của họ.
Thị trưởng nghĩ thầm:
- À, mình nhớ ra rồi, trước kia chắc có chuyện giữa mụ ấy và em mình.
Mụ ấy chết đi cũng phải, thằng bé con sẽ được hưởng cả số tiền. Mình sẽ
gửi nó đến ở các nhà tử tế, sau này nó sẽ trở thành một người thợ khéo và
tốt.
Và quả nhiên, Thượng Đế cũng muốn cho những lời nói đó được thực
hiện đầy đủ.