chiếc cầu vồng lóng lánh nom như một dải băng màu tung bay trước gió.
Cảnh tượng oai nghiêm ấy làm chàng liên tưởng đến quãng suối chảy thành
thác ào ào, ngầu bọt làm thành bánh xe cối xay ở Kjoge. Đi đến đâu, kỷ
niệm chốn quê hương vẫn theo đuổi chàng.
Nhẽ ra chàng sẵn sàng lưu lại ở một trong những chốn tĩnh mịch bên bờ
sông Rhine, nhưng vùng này có nhiều cây hương mộc và cây liễu quá,
chàng lại tiếp tục đi, chàng vượt qua nhiều núi cao, đi trên những con
đường nhỏ men theo vách núi đá dựng đứng tựa như một chiếc máng nước
chảy dọc theo mái nhà. Mây trườn dưới chân chàng, chàng nghe thấy từ
thung lũng sâu thăm thẳm vọng lên tiếng suối chảy ầm ầm. Chẳng có gì làm
chàng sợ hãi hoặc ngạc nhiên cả. Bước trên những ngọn núi phủ tuyết đầy
hoa hồng núi Alps, chàng đi về phía những vùng chan hòa ánh nắng. Từ giã
những xứ phương Bắc, theo những con đường rợp bóng nho quấn quít lấy
những cây hạt dẻ, chàng đi tới những cánh đồng ngô. Núi non hiểm trở như
một bức tường thành vĩ đại đã ngăn cách chàng với những nơi đã gây cho
chàng những kỷ niệm siết bao sầu thảm. Chàng tự nhủ: “Thế mà lại hóa
hay!”
IV
Trước mặt chàng là một thành phố to lớn và lộng lẫy, dân vùng này gọi là
Milano. Chàng tìm được một ông chủ người Đức thuê chàng làm. Ông chủ
là một cụ già trung hậu, người vợ hiền lành và rất ngoan đạo. Hai vợ chồng
đều thấy mến anh thợ người nước ngoài, ít nói nhưng hay làm, thật thà và
ngoan đạo.
Knud tưởng chừng như Thượng Đế đã giải thoát cho chàng khỏi nỗi sầu
nặng trĩu trong lòng. Chàng thích leo lên tận cùng của giáo đường Lớn
[33]
làm bằng cẩm thạch trắng như tuyết, nơi quê hương chàng. Chàng thường
đi dưới những ngọn tháp nhọn, những lầu chuông nhọn hoắt và những cửa
tò vò. Từng góc, từng vòm có những pho tượng mỉm cười với chàng. Phía
trên là trời xanh biếc, phía dưới là thành phố, rồi đến đồng bằng bát ngát xứ
Lombardy xanh tươi và tít đằng xa là những ngọn núi cao. Chàng nhớ tới
nhà thờ Kjoge, nhớ tới những bức tường đỏ phủ đầy hoa trường xuân. Thật