Ái chà chà! Thật là náo nhiệt! Các chàng trai lao vào, chen chúc nhau,
nhưng suốt hai ngày chẳng một ai thành công cả. Ở ngoài phố thì anh nào
cũng nói năng liến thoắng, nhưng một khi đã qua cửa lâu đài, trông thấy
lính gác bận áo dát bạc, thấy quân hầu đeo tua rua vàng đứng trên cầu
thang, khi bước vào các văn phòng sáng trưng, các anh chàng đâm hoảng và
khi đến trước ngai vàng, nơi công chúa ngồi, thì chẳng nói gì hơn là lắp lại
tiếng cuối cùng trong lời phán bảo của công chúa. Cách đối đáp ấy làm cho
nàng chẳng thích thú chút nào. Có thể nói là các chàng đến cầu hôn ấy đều
đã hít quá nhiều thuốc lào, nên ngây ngất như người say thuốc. Chỉ đến khi
ra tới ngoài phố họ mới trở lại ba hoa như trước. Họ đông đến nỗi phải xếp
thành một hàng dài từ cửa ô đến tận lâu đài.
Tôi bận ở đấy để xem họ. Họ chờ lâu đến nỗi phải chịu nhịn đói, nhịn
khát, thế mà ở lâu đài người ta chẳng chịu cho họ lấy một cốc nước lã. Có
anh mang theo bơ và bánh mì, nhưng chẳng chia sẻ cho ai cả. Những anh ấy
nghĩ rằng: “Cứ để cho họ đói lả đi. Trông họ sẽ thảm hại và công chúa sẽ
gạt họ ra”.
- Nhưng còn Kay? - Gerda hỏi - Kay có mặt ở đó không?
- Khoan tí đã! Giờ đến lượt Kay rồi đấy.
Sáng ngày thứ ba, bỗng người ta thấy một cậu bé chẳng có ngựa xe gì cả,
vui vẻ đi bộ tới lâu đài. Mắt cậu ta lóng lánh như mắt cô vậy. Tóc cậu dài và
rất đẹp, nhưng quần áo thì xấu xí.
- Kay đấy! - Gerda vui vẻ vỗ tay reo lên. - Đúng là Kay rồi!
- Trên lưng cậu ta đeo một túi vải to.
- Không phải túi vải đâu, đấy là cái xe trượt cậu ấy mang theo đi ra đi.
- Cũng có thể - Quạ đáp - Vì tôi không nhìn cậu ta kỹ lắm, nhưng cô bạn
kể rằng khi vào lâu đài trông thấy lính gác mặc áo dát bạc và lên thang gác
gặp quân lính hầu đeo tua rua vàng cậu ta không hề ngạc nhiên. Cậu ta chào
họ và bảo: “Đứng ở cầu thang như các anh thì chán chết. Tôi thì tôi thích
vào trong nhà hơn.” Các phòng đều sáng choang, một đoàn các quan lớn,