Truyền kỳ mạn lục
NGUYỄN DỮ
Thần đem xuân lại cho đời,
Đầu non chớm nở một trời mai hoa.
Ông khách đọc xong than rằng:
- Nam Châu nếu không có tôi, biết đâu phu nhân chẳng là tay tuyệt xướng, mà tôi nếu không có phu
nhân, biết đâu chẳng là tay kiệt xuất trong một thời. Thế mới biết lời đồn quả không ngoa thật.
Phu nhân nói:
- Tài tôi nhỏ mọn, đâu dám so sánh với ngài trong muôn một. May mà gặp được tiên triều, hằng chầu
hầu nghiên bút, cho nên mới thông lề luật, chắp nối thành bài. Một hôm tôi nhân đi chơi núi Vệ Linh
(5), tức là nơi đức Đổng Thiên vương bay lên trời, tôi có đề rằng:
Vệ Linh xuân thụ bạch vân nhàn,
Vạn tử thiên hồng diệm thế gian.
Thiết mã tại thiên danh tại sử,
Anh uy lẫm lẫm mãn giang san.
Dịch:
Vệ Linh mây trắng tỏa cây xuân,
Hồng tía muôn hoa đẹp cảnh trần.
Ngựa sắt về trời, danh ở sử,
Oai thanh còn dậy khắp xa gần.
Sau vài tháng, bài ấy truyền khắp trong cung, đức Hoàng thượng rất là khen ngợi, ban cho một bộ áo.
Lại một hôm, Hoàng thượng ngự ở cửa Thanh Dương, sai quan Thị thư họ Nguyễn làm bài từ khúc
uyên ương. Bài làm xong nhưng Hoàng thượng không vừa ý, ngoảnh bảo tôi rằng:
- Văn nàng cũng hay lắm, hãy thử đem tài hoa gấm cho trẫm xem nào.
Tôi vâng mệnh, cầm bút làm xong ngay, có hai câu cuối thế này:
Ngưng bích phi thành kim điện ngõa,
Trứu hồng chức tựu Cẩm Giang la.
Dịch:
Biếc đọng kết nên ngói đền vàng,
Hồng châu dệt thành lụa Cẩm Giang.
Hoàng thượng khen ngợi hồi lâu, ban cho 5 đĩnh vàng, lại gọi là "Phù gia nữ học sĩ". Từ đó tôi nức
tiếng đương thời, được làng văn mặc coi trọng, đại khái đều do sức giúp của đấng Tiên hoàng cả.
Đến khi đức Thuần hoàng đế thăng hà tôi có làm bài thơ viếng rằng:
Tam thập dư niên củng tử thần,
Cửu chân tứ hải hựu đồng nhân.
Đông tây địa thác dư đồ đại,