Truyền kỳ mạn lục
NGUYỄN DỮ
thì ngày ấy chính đúng vào ngày Trịnh kiện. Ôi lạ thay!
Lời bình:
Than ôi, chống được ách lớn thì thờ, cản được nạn lớn thì thờ, đó là phép cúng tế. Hưởng sự cúng tế
ấy thì phải "cố danh tư nghĩa", (7) đâu có lẽ nhận sự thờ cúng lại còn đi làm tai làm họa cho người.
Thế thì cái tội của vị thần Thuồng luồng chỉ phải bị đày thôi sao!
Quảng Lợi vương dụng hình như thế, thật là chưa đáng. Tất phải làm như Hứa Tốn, Thứ Phi (8) mới
là cái việc thú vị được. Cho nên Địch Nhân Kiệt khi làm Tuần phủ Hà Nam (9) tâu xin phá hủy đến
một nghìn bảy trăm tòa đền thờ không xứng đáng, thật là phải lắm.
Chú thích
(1) Hồng Châu: tương đương với vùng đất thuộc tỉnh Hải Dương ngày nay.
(2) Minh Tông nhà Trần: Trần Mạnh, vua thứ năm nhà Trần từ 1314 đến 1329; niên hiệu Đại Khánh
(1314-1323) và Khai Thái (1324-1329).
(3) Liễu Nghị người đời vua Trung Tông nhà Đường, đi thi bị trượt, về đến đất Kinh Dương, thấy
một người đàn bà chăn dê đến nói rằng: "Thiếp là con gái vua Động Đình, gả cho con thứ vua Kinh
Xuyên, bị con hầu gái xúc xiểm, thành ra đắc tội với cha mẹ chồng, nên phải truất đuổi đến đây.
Nghe chàng về qua Động Đình, làm ơn đưa hộ thiếp bức thư. Nhà thiếp ở cổng có cây quýt lớn, cứ
gõ vào cây ba tiếng thì có người ra". Nghị theo lời. Rồi nhân thế được đón xuống chơi Long cung.
Sau Nghị lấy người con gái họ Lư, nàng xưng mình chính là Long nữ nhờ Nghị đưa thư ngày trước,
rồi cùng đưa nhau về ở Động Đình.
(4) Khoảng niên hiệu Chí Chính nhà Nguyên, có người học trò là Dư Thiện Văn, giữa ban ngày thấy
hai người lực sĩ đến nói là vâng mệnh của Quảng Lợi vương (vua thủy) sai đón, Thiện Văn theo đi.
Đến bến sông xuống một chiếc thuyền, thấy hai con rồng vàng cắp mà đem đi, rồi xuống đến Thủy
phủ. Quảng Lợi vương tiếp đón long trọng rồi nhờ soạn hộ một bài văn để đọc lúc làm lễ cất câu
đầu của tòa đền Linh Đức sắp dựng. Thiện Văn liền làm hộ một bì rất hay. Khi khánh thành, Thiện
Văn được dự một bữa yến lớn.
(5) áo tinh hồng: áo màu đỏ; tinh: con tinh tinh thuộc họ vượn. Tinh hồng: màu đỏ như huyết con
tinh tinh.
(6) Đai ly châu: đai ngọc quý. Ly châu: ngọc, ý từ sách Trang Tử: "Ngọc châu nghìn vàng tất ở dưới
hàm con ly long, dưới vực sâu chín trùng" (Thiên kim chi châu, tất tại cửu trùng chi uyên, nhi ly long
hàm hạ)