chỉ đánh cho tàn phế chứ không đánh chết. Lúc đó lương thực là sinh mệnh.
Thế nhưng... chẳng một bóng người. Mấy anh em bảo chắc là cha tôi nửa
đêm hoa mắt. Cha tôi thì thề sống thề chín là chuyện có thật. Chỉ khi ông
nội tới can thiệp họ mới ai về giường nấy ngủ tiếp.
Đợi họ về hết, ông tôi mới đến bên ang nước gõ gõ vào nắp, nói: “Anh
khỏi cần trốn nữa, ra đi!”. Một người ướt sũng đứng lên, toàn thân run rẩy,
mặt không còn thần sắc, tay vẫn còn cầm túi đại mễ.
Ông tôi nhìn kẻ trộm, thở dài: “Thôi, anh đi đi!
Nếu các con tôi thấy thì hôm nay anh không khỏi tàn phế đâu!”. Hắn
nhìn ông tôi, nghi hoặc, không nghĩ dễ dàng như thế. Ông xua xua tay.
Người này trèo khỏi ang, ông tôi chỉ cái túi đại mễ sũng nước, bảo: “Cầm
về đi, cũng giúp được nhà anh vài ngày”.
Hắn định nói gì nhưng không nổi, mắt đỏ hoe lên, cúi đầu đi ra. Ông
tôi nói: “Chậm đã”, rồi nhét vào tay hắn một xâu tiền đồng. “Cầm chỗ tiền
này lấy chút vốn liếng, đừng làm những việc trái lẽ trời, trái đạo lí thế này
nữa”. Hắn quỳ sụp xuống lạy ông tôi rồi đi.
Không biết bao lâu nữa thì trời sáng. Ông tôi vừa mở cửa thì thấy ở
trên vòng cửa một con cá tươi nặng hơn hai cân. Đầu tiên ông thấy lạ
nhưng lập tức hiểu ra là của tay trộm mang biếu, người này có lẽ làm nghề
buôn cá. Từ đó về sau, ở cái vòng cửa nhà tôi thường xuyên xuất hiện cá
tươi.
Trừ ông nội, ai cũng thấy lạ. Ông nội bèn chậm rãi kể cho các con
nghe về lai lịch của những con cá đó.
Sau khi nhận mấy chục con cá ông nội tôi thấy không yên lòng. Ông
nói cho cả nhà biết đó cũng là một số vốn nhỏ để làm ăn, và khuyên đừng
ăn vào của người ta nữa. Thế là liền mấy ngày, cứ nửa đêm, ông trở dậy rồi
thức luôn đến sáng. Cho đến ngày thứ ba, ông gặp người biếu cá, ai ngờ đó
không phải là tay trộm trước kia mà là một thanh niên con của tay trộm ấy.
Ông ta, trước lúc lâm chung đã dặn con phải giữ nếp biếu cá cho gia đình
tôi. Ông tôi và các bác, chú đều gật đầu. Để không phạm đến nguyện vọng
của người đã mất, ông tô cầm dao đưa cho anh thanh niên khắc con cá lên