SỐ PHẬN
WLADYSLAW REYMONT
(NOBEL 1924)
Trời cuối thu, ẩm ướt và u buồn. Bầu trời thấp tè bởi những đám mây đen
cuồn cuộn, giăng màn tang ảm đạm, nặng nề. Ngày tháng mười u ám, mịt
mờ, run rẩy vì khổ đau; nỗi thất vọng nấc lên trong tiếng rít của gió, còn
tiếng mưa tựa hồ tiếng rơi của những giọt nước mắt tuôn trào, không sao
cầm nổi. Bởi bất kỳ nơi đâu trong tầm mắt ta nhìn chỉ thấy cảnh hoang tàn
của làng quê, những vết tích tang thương của những cánh rừng bị tàn phá,
những nhà thờ đổ nát, những gọng xương đen của những vườn cây ăn quả
bị đốt trụi. Chiến tranh đã chà bàn chân sắt của mình lên khắp nước, khiến
cho mọi miền trở thành một nghĩa địa khổng lồ, đây đó trồi lên những ống
khói màu đỏ, nom y như những tấm bia mộ còn rỉ máu tươi. Thậm chí vẫn
còn đó những bãi chiến trường nhơ nhuốc, tiêu điều, ngổn ngang những tàn
dư ghê tởm của những cuộc giết chóc, những trận tàn phá và những đám
cháy.
Ngay đến cả khí trời cũng nồng nặc mùi xác thối và lửa thiêu. Trên xác
người và trong cảnh hoang tàn cái chết đang cất lên bài ca đắc thắng của
sức mạnh. Ở phía đằng đông vẫn còn thấy những cột khói đen ngòm cùng
những ngọn lửa đỏ của những đám cháy. Những làng quê, những thành
phố, những lâu đài ở nơi đó đang bị lửa thiêu và gió đưa về tiếng gầm mờ
ảo, đơn điệu và ghê rợn của những cỗ đại bác dữ dằn. Còn trên con đường
rộng chạy ngoằn ngoèo qua những cánh đồng mờ sương, những đoàn người
hốt hoảng đang chạy trốn, nom tựa hồ một dòng bùn đen đang tuôn chảy.
Người ta kéo những cỗ xe chất đầy đồ đạc và trẻ thơ, những con bò cái dắt
theo bằng dây chão rống oang oang và những con chó lạc đường sủa não
nùng. Dòng người chảy đi từ những vùng ven, từ những bãi tro tàn và gạch
vụn, từ những cánh rừng và những ngôi nhà ổ chuột, trông y như một đám