khóc cốt để nhón được nhúm bột, thì trước mặt ông xuất hiện một người
đàn bà quấn trong tấm voan đã bạc màu. Cô nói thầm thì với thái độ dè dặt
như thường thấy ở các phụ nữ Hồi giáo gia đình khá giả, mỗi khi phải cố
gắng che giấu sự ngượng ngập ở trong lòng.
- Con là con dâu nhà Memisaghich. Nhà có sáu người. Không có người đàn
ông nào. Con không hiểu gì về tem phiếu và danh sách. Nếu đức ông hiểu
thế nào là nỗi bất hạnh...
Đến đây cái giọng khẽ khàng của cô bị nghẹn lại bởi tiếng nấc bị dồn nén
không thành tiếng, nhưng cô vẫn tiếp tục đứng trước viên quan.
Vị này luống cuống giơ tay lên trời, nhìn những kẻ giúp việc và đám lính
lệ. Không ai dám chạm tới người đàn bà bất hạnh và dẹp cô ta khỏi đường
đi, còn đám Digan, được khích lệ bởi sự do dự của viên quan, lại gào lên,
kêu với ông:
- Cả chúng tôi nữa, cả chúng tôi nữa, thưa ngài.
- Không cho riêng cô ấy, cho cả chúng tôi nữa.
Đám lính nhìn thẳng về phía trước, chờ đợi lệnh của viên quan; còn ông thì
đã quên họ, quên gia đình, quên nghĩa vụ và chiến tranh, mà chỉ ước muốn
có một điều - được chết quách đi, được biến khỏi cái thế giới này, nơi mà
mỗi một sinh linh ngày ngày cần phải được ăn.
Nhưng ngày mới lại đến mà tất cả vẫn ở nguyên chỗ cũ, và tất cả lặp lại đến
từng chi tiết. Thực ra, từ ngày hôm qua công việc ở Aprovidasia trôi đi trên
làn sóng nhạc. Trong sân toà nhà bên kia đường từ sáng sớm đã có những
người Digan nổi nhạc. Hai cái trống và một cái kèn. Trống đánh khô khan
và đơn điệu với nhịp đều đều và trên cái nền nhạc tăm tối ấy tiếng kèn tấu
lên một giai điệu Digan quen thuộc. Giai điệu run run vút lên như một tia
nước đài phun và ta chờ đợi từ trên điểm cao của tuyến đơn điệu ấy nó sẽ
nở bung ra như bông hoa, nhưng thay vào đó lần nào nó cũng bỗng rơi