Đầu óc lão quay cuồng, lão không biết làm gì, lão rắc quà tặng, sai bảo việc
này việc nọ. Lão chạy ra hiên và hét to qua các chấn song gỗ cho những kẻ
đang ở ngoài sân nghe thấy:
- Điệu Côlô ! Côlô ! Xong, lão lao bổ ra sân. Chạy ngang qua Meira, lão
quát mụ hãy cuốn xéo khỏi nhà lão rồi quên phắt ngay mụ, đứng vào điệu
côlô nhảy lò cò một cách vụng về chẳng ăn nhịp với nhạc.
Khi gần đến giờ, lão Huso lôi từ túi áo ngực ra chiếc đồng hồ bằng bạc,
thấy sắp đến hai giờ, liền chạy quanh thêm lượt nữa và trở lại phòng giam
đúng như khi về nhà, để an ủi và mua vui Iusuf đang sốt ruột nén nỗi hoảng
sợ trong lòng.
Và cứ như thế Huso thoát khỏi nhà tù một hai tiếng trong suốt ba ngày.
Trong suốt thời gian đó tiệc tùng và múa hát trong nhà lão không ngừng.
Thậm chí trong trí nhớ của lũ trẻ ít tuổi tận vùng ngoại ô thành phố, ở
Povestach hay gần Meidan, tiếng trống và kèn vang ầm suốt ba ngày này đã
để lại một kỉ niệm không phai nhoà về đám cưới của Kuratnic.
Còn ngay bên cạnh nhà lão, dưới âm thanh nhạc đệm từ sân, Aprovidasia
ngày này qua ngày khác vẫn tiếp tục cái công việc kì lạ của nó là bằng vài
chục bao tải bột cố gắng làm dịu cái đói vô cùng tận của dân chúng. Viên
quan chức với tấm lưng còng và đầu gối chùng, những người giúp việc của
ông ta cau có và nhẫn tâm như những kẻ đào huyệt, lũ lính lệ thở ra mùi
hành rán và bánh mì bếp lính chua chua, xướng tên và phân phát bột, đánh
đập hay giảng giải, mỗi loại người đều làm theo đúng bổn phận và tính
cách của mình. Còn dân chúng thì đổ xô đến thánh địa mới ấy, đúng luật
hay phá luật, luôn đòi hỏi một cách kiên nhẫn và mù quáng.
Những người đàn bà bất hạnh và hoá điên đến đây chỉ để cởi nỗi lòng trong
những lời than vãn hay cãi cọ. Thậm chí cả chó và chim cũng tụ tập ở đấy
để chờ đợi may ra có bao bì nào bị thủng rơi vãi ít hạt bột nào không.