Nhưng lúc này đây đi ngang bên anh là những người xa lạ. Người nào
người nấy đêu vội vội vàng vàng, đêu lo tâm bận trí, đêu chăm chăm nhìn
xuống, sợ giẫm phải vũng nước trên vỉa hè hỏng nát, chạy dài theo những
dãy nhà bị tàn phá.
Visnhiakốp tưởng rằng đi hết đường phố bị tàn phá này, sau đó là mở
ra trước mắt anh thành phố thực sự. Nhưng hết dãy đổ nát này tiếp đến dãy
đổ nát khác, mà thành phố nguyên vẹn đang sống vẫn chưa hiện ra - vẫn
những khối nhà bị tàn phá ấy, vẫn những cái hộp gạch đá trống không,
trong lòng trải lớp tuyết đen bẩn còn chưa tan.
Trong một ngày ấm áp như thế này, khách bộ hành thường đi dọc ở
bên mép hàng, bởi vì từ các mái nhà nước rỏ xuống và các ống máng xối
nước ra. Nhưng trong thành phố này từ trên mái không có nước rỏ và ống
máng như luôn luôn khô, bởi vì làm gì còn mái nhà nữa.
Visnhiakốp ngẩng đầu. Nền trời xanh trắng nhìn xuống anh qua mảnh
tường thủng. Tít cao trên tầng gác ba treo lơ lửng một chiếc giường sắt
cong queo vì lửa, bên cạnh đó là cái bếp lò gạch men trắng bám vào tường.
Người ta bao giờ cũng tìm đến với hơi ấm, giường ngủ bao giờ cũng ghé
sát bên các vách lò, vì thế cảnh tượng chiếc giường sắt cong queo bên cái
bếp lò nguội lạnh làm cho trái tim đau thắt lại.
Do chỗ cái dãy nhà bị tàn phá và bầu trời nhìn qua các ô cửa sổ, phố
xá có cảm giác rộng ra.
Con đường đi lên đồi cao. Hình như trước đây, trong cái ngày trận
đánh - Visnhiakốp đã qua nơi đây nhưng khi đó đường phố này anh không
cảm thấy lấy gì làm dốc. Anh nhớ là, khi đó anh bước đi, mang đầy đủ
trang bị - cả súng, cả máy dò mìn - và ngày hôm ấy ấm hơn bữa nay, và
trong một ngày anh đã đi qua biết bao nhiêu đường đất, vậy mà anh không
thấy mệt: lúc băng lên thì núi cao nào cũng chỉ là đường bằng, lối đi nào
cũng thẳng tắp.