bản ngắn hơn của THPQ. “Tinh thần Tuyệt đối” được phân chia thành
NGHỆ THUẬT, TÔN GIÁO khải thị và TRIẾT HỌC. Nó tương ứng,
nhưng chỉ đại thể, với phần cuối của HTHTT: VII. “Tôn giáo” và VIII. “Tri
thức tuyệt đối”.
Các phần thứ hai và thứ ba đều quay trở lại khởi điểm của mình, giống
như Lô-gíc học. Nhưng BKT, xét như một toàn bộ, được xem là quay trở lại
với khởi điểm của mình, vì Lô-gíc học, triết học tự nhiên và triết học tinh
thần lần lượt là các khoa học về ý niệm TỰ MÌNH VÀ CHO MÌNH, trong
tính khác của nó, và trong sự quay trở lại chính mình từ cái khác của nó.
(Giai đoạn cuối của tinh thần, tức triết học, bắt đầu với Lô-gíc học). Vậy
nên BKT miêu tả triết học là một “vòng tròn của những vòng tròn” (BKT I,
§15), và cung cấp một “sự giáo dục vòng tròn”.
Nguyễn Văn Sướng dịch
Đẹp (cái) [Đức: Schönheit; Anh: beauty] → Xem: Nghệ thuật, Đẹp
(cái) và Mỹ học [Đức: Kunst, Schönheit und Ästhetik; Anh: art, beauty
and aesthetics]
Định mệnh, Vận mệnh và Thiên hựu/Quan phòng [Đức:
Schicksal, Bestimmung und Vorsehung; Anh: fate, destiny and
providence]
Tiếng Đức có nhiều từ để chỉ “định mệnh” hay “vận mệnh”:
(1) Bestimmung (sự QUY ĐỊNH/Anh: determination) là “vận mệnh”
hay “đích đến” (Anh: destination) của ta, trong chừng mực điều này phụ
thuộc vào bản tính tự nhiên bên trong của ta.
(2) (Das) Geschick (Anh: “fate”, và ngày nay cũng có nghĩa là “tài
khéo”) sinh ra từ chữ schicken (ban đầu nghĩa là “làm cho xảy ra”, bây giờ