có nghĩa là “gửi đi”), đến lượt mình lại có cùng gốc với chữ (ge) schehen
((đã) xảy ra). Ngày nay chữ Geschick chỉ bản thân các sự kiện, hơn là đến
sức mạnh quy định chúng.
(3) (Das) Schickal cũng sinh ra từ chữ schicken. Nó vừa chỉ các sự
kiện lẫn sức mạnh quy định chúng, nhưng ta sử dụng nó chỉ khi liên quan
đến con người, chứ không phải các sự vật. Nó có thể được sử dụng một
cách chung chung hoặc cho số phận hay vận mệnh của điều gì đó, chẳng
hạn của Kitô giáo. Nó là chữ Hegel thường dùng chỉ “định mệnh” hay “vận
mệnh” (Anh: fate/destiny).
(4) Das Fatum sinh ra từ chữ La-tinh là fari, “trình bày, làm cho được
biến đến”, và do đó lúc đầu quy đến mệnh lệnh của thần linh. Leibniz,
trong tác phẩm Theodizee của mình (1710), đã phân biệt (a) Fatum của
“người theo đạo Islam”, vốn bí hiểm và không thể thoát khỏi; (b) Fatum
của phái Khắc kỷ, là cái ta có thể hiểu và do đó đạt được sự an lạc nội tâm;
và (c) Fatum của Kitô giáo, vốn phải được chịu đựng một cách vui vẻ, vì
nó đã được một thần tính nhân từ gửi đến. Hegel đôi khi phân biệt Fatum
với Schicksal: Fatum hoàn toàn là tất yếu mù quáng, dửng dưng với công lý
và bất công, trong khi Schicksal trong bi kịch Hy Lạp (đặc biệt là trong bi
kịch Sophocles), được nhìn nhận như là công lý thực sự. Nhưng thường thì
chúng đồng nghĩa với nhau, như trong tường thuật của ông về nhận xét của
Napoleon cho Goethe rằng ta không còn có một Schicksal để con người
phải phục tùng và Fatum cũ đã được thay thế bằng chính trị học. (Trong
LSTH, Hegel áp dụng châm ngôn này vào La Mã thời đế chế, hơn là vào
thế giới hiện đại).
(5) (Das) Verhängnis, sinh ra từ chữ verhängen (“treo lên (điều gì đó),
cho xảy ra”), được sử dụng trong thời Cải cách [1517-1648] để chỉ “mệnh
trời/miễn trừ”, và trong thời Khai minh [1650-1780] như là tương đương
với Schicksal. Ngày nay nó có nghĩa một “số mệnh không may, bạc phận”.