Grenzebegriff; nó không đưa ra bất kỳ yêu sách xác định nào về những gì
vượt khỏi các ranh giới của kinh nghiệm, nhưng phục vụ như một biển báo
“Hãy tránh xa!”. Khái niệm về một ranh giới (Grenze) và về sự tự-giới-hạn
của cái Tôi tuyệt đối để trở thành cái Tôi hữu hạn là quan trọng trong
HTKH của Fichte. Trong toán học, một Grenze hay Grenzwert (giá trị giới
hạn) là giá trị mà các hạn từ thuộc một dãy vô hạn ngày càng tiệm cận
nhưng không bao giờ đạt đến được: chẳng hạn ranh giới của dãy 2, 1
1/2
,
1
1/4
, 1
1/8
, v.v. là 1. Hegel bàn về khái niệm này trong nghiên cứu của ông về
cái nhỏ VÔ HẠN trong KHLG.
Hegel phân biệt Grenze [ranh giới] và Schranke [giới hạn], và các dịch
giả cũng dùng những từ khác nhau trong tiếng Anh để dịch: chẳng hạn
Grenze thành limit và Schranke thành limitation (Miller); Grenze = limit,
hay boundary; Schranke = barrier hay check (Wallace); Grenze =
limit(ing) và Schranke = restriction, restricting (Knox). Sự phân biệt này là
như sau:
1. Một thực thể hữu hạn thì có một ranh giới (Grenze). Thường thì, nó
có một ranh giới về CHẤT, cũng như một ranh giới về LƯỢNG. Một cánh
đồng một mẫu có một ranh giới về lượng mà nhờ đó nó là một mẫu, nhưng
cũng có một ranh giới về chất mà nhờ đó nó là một cánh đồng chứ không
phải một khu rừng hay cái ao. Mỗi loại ranh giới đều là một sự PHỦ
ĐỊNH: nó là một mẫu chỉ vì nó không mở rộng vượt ra ngoài những đường
biên của nó, và nó là một cánh đồng là vì nó không phải là rừng, là ao, v.v.
Nhưng quan hệ của cánh đồng với ranh giới của nó là khác nhau trong mỗi
trường hợp. Ranh giới về lượng là BÊN NGOÀI hay dửng dưng
(gleichgültig): nếu cánh đồng được mở rộng về diện tích, điều ấy sẽ không
ảnh hưởng gì đến phần cánh đồng nằm bên trong những đường biên ban
đầu của nó, hay nếu nó bị giảm diện tích, thì cũng sẽ không ảnh hưởng gì
đến những gì còn lại của cánh đồng. Nhưng ranh giới về chất của nó là bên
trong đối với cánh đồng: nếu cánh đồng bị ngập thành ao, điều này sẽ biến