Mô hình “khẳng định giản đơn - phủ định - phủ định của phủ định” là
thường xuyên lặp đi lặp lại trong suốt tư tưởng của Hegel, và sự phủ định
của phủ định trong một sự ứng dụng nào đó lại tái xuất hiện như một sự
khẳng định đơn giản cho sự ứng dụng khác nữa. Chẳng hạn, giai đoạn đầu
của Ý CHÍ, sự rút lui vào trong chính mình của nó và sự phủ định mọi thứ
xác định (một phiên bản của (ii) ở trên), bị phủ định bởi sự chấp nhận một
lựa chọn nhất định, và điều này, đến lượt nó, được phủ định bởi chính bản
thân ý chí của nó.
Trong Lô-gíc học (Học thuyết về Bản chất), cái phủ định và cái khẳng
định được xem là hệ hình của sự đối lập, một hình thức của sự phủ định
được nâng cao, trong đó mỗi hạn từ không đơn giản là khác với cái khác
(như màu đỏ là khác với màu xanh dương, màu xanh lá, v.v.), mà chính là
cái khác của nó (như hướng bắc là cái khác của hướng nam). Ở đây, cái phủ
định đối lập với cái khẳng định là khác với cái phủ định quen thuộc trong
sự phủ định của Hegel: cái khẳng định phủ định cái phủ định cũng ngang
bằng như cái phủ định phủ định cái khẳng định, và vì thế, là mang tính phủ
định cũng nhiều như là khẳng định.
Hoàng Phong Tuấn dịch
Sự sống/Đời sống/Cuộc sống và Sinh thể hữu cơ [Đức: Leben und
der lebender Organismus; Anh: life and the living organism]
Động từ leben nghĩa là “sống” theo hai nghĩa chính: (1) “đang sống”,
tức là chưa chết; (2) “sống” theo một cách nào đó, chẳng hạn sống cô độc
hay sống nguy hiểm. Tương tự danh từ (das) Leben nghĩa là (1) “sự sống
sinh học, đang sống”; (2) “(một) cuộc sống, cuộc sống (của tôi)”. Tính từ
lebendig và danh từ trừu tượng Lebendigkeit, nghĩa là “đầy sức sống” và
“sức sống” theo nghĩa đen lẫn nghĩa ẩn dụ, thường được Hegel dùng.