là nhiều hơn việc chỉ đơn giản là một khoảng trống được đánh dấu tách biệt
bởi (những) cái khác.
3. Hegel bàn về các phán đoán khẳng định và phán đoán phủ định,
nhưng ông không quan tâm nhiều đến sự phủ định xét như một đặc điểm
của các phán đoán. Giống như các quan niệm về sự mâu thuẫn, SUY
LUẬN, và bản thân phán đoán, sự phủ định trước hết là một đặc tính của
khái niệm và sự vật. Nhưng Negation và Negativität giữ lại hương vị tích
cực của việc phủ định hay phủ nhận thuộc về phán đoán. Sự vật và khái
niệm không chỉ có tính phủ định hay loại trừ, chúng còn phủ định nhau một
cách chủ động nữa. Như trong trường hợp của sự hạn định, Hegel có
khuynh hướng dồn chung các ý niệm về sự phủ định thuộc về khái niệm và
sự phủ định thuộc về vật lý.
Sự phủ định và sự phủ định của phủ định vận hành ở những cấp độ
khác nhau và theo những cách thức khác nhau:
(a) Một sự tương tự đơn giản (và quá giản lược) trong lịch sử về phép
biện chứng giữa “cái gì đó” với “cái khác” là đây: trước khi có sự xuất hiện
của đạo Tin Lành, Công giáo chỉ là Kitô giáo xét như là Kitô giáo (phương
Tây). Sau đó nó sinh ra đạo Tin Lành, là cái phủ định nó. Đạo Tin Lành
không chỉ là không phải Công giáo, mà nó còn chủ động tự dị biệt hóa với
Công giáo và mang những đặc điểm của Công giáo mà nó phủ định. Công
giáo, đến lượt mình, lại phủ định đạo Tin Lành, qua đó, chấm dứt việc chỉ
là Kitô giáo một cách đơn giản xét như là Kitô giáo và mang những đặc
điểm của sự tự dị biệt hóa chủ động của nó với đạo Tin Lành.
(b) Một tín đồ Công giáo chưa phản tư và một tín đồ Tin Lành chưa
phản tư đi đến chỗ phản tư về những niềm tin riêng của họ (có lẽ nhờ vào ý
thức của họ về sự khó khăn của việc chứng minh ĐỨC TIN của người này
trong sự đối lập với đức tin của người kia). Bấy giờ, họ từ bỏ hay phủ định
đức tin của họ. Nhưng mỗi người vẫn mang những dấu hiệu của đức tin mà
họ phủ định hay thải hồi: một tín đồ Công giáo đã từ bỏ đức tin là khác với