những trực quan bên ngoài, và, theo Hegel, dù vậy vẫn không phải là tùy
tiện và cấu tạo nên nhận thức. Ông liên kết tư duy như thế với noēsis
noēseōs (“tư duy của/về tư duy”) mà Aristoteles đã gán cho Thượng Đế và
được Plotinus gán cho “trí tuệ đúng thật” (nous).
Khi Hegel nói rằng tư tưởng hay tư duy là VÔ HẠN, ông muốn nói
vài điều sau: (1) Các (hình thái-) tư tưởng không tách biệt dứt khoát với
nhau, và không hạn chế nhau: chúng được đan dệt với nhau bởi lý tính và
phép BIỆN CHỨNG. (2) (Các) tư tưởng bao trùm cái khác hơn là tư tưởng.
(3) Tư tưởng có thể tư duy về chính nó. (4) Tư tưởng xét như một toàn bộ
không có các giới hạn. Ngược lại, các tư tưởng HỮU HẠN là các phân
mảnh của tư tưởng và chúng: (a) được xét như tách biệt với các tư tưởng
khác; (b) được xét như tách biệt khỏi các sự vật; (c) không thể, hay không
được xem như có thể áp dụng vào chính chúng; và/hay (d) có thể áp dụng
cho các thực thể hữu hạn hay cho những tư tưởng về những thực thể hữu
hạn.
Bùi Văn Nam Sơn dịch
Tự mình, Cho mình, Tự mình và Cho mình [Đức: an, für und an
und für sich; Anh: in, for and in and for, itself, himself, etc]
Đại từ phản thân ngôi thứ ba trong tiếng Đức là mình [sich]. Nó vừa ở
số ít vừa ở số nhiều, bao quát cả ba giống. Theo đó, nó có nghĩa là “tự
mình, tự anh ta, tự chị ta, tự nó; tự chúng; lẫn nhau”. Nó có thể là túc từ
trực tiếp hoặc túc từ gián tiếp, nhưng không thể là chủ ngữ hoặc ở sở hữu
cách. Nó đi cùng với nhiều động từ phản thân của tiếng Đức, và cũng có
thể đi sau các giới từ. Chẳng hạn, cho mình [für sich] (nghĩa đen “cho chính
mình”, v.v.) xuất hiện trong những văn cảnh như “Anh ta cần một phòng
cho mình”, “Cô ta sống nhờ chính mình”, và “Điều đó là một vấn đề tự
mình, tức là, không kể đến những mối liên hệ của nó với các vấn đề khác”.
Trong cách sử dụng thông thường, tự mình (“an sich”, v.v.) thường không