Nhưng không một cô nào muốn trả lờì , Tuấn mới kể lại câu chuyện gặp ma
( kể lần thứ ba , thứ tư …) và cười giỡn , cố ý tạo ra không khí thân mật
hơn để các cô thổ lộ vài câu tâm sự . Mãi khuya gần đi ngủ , cô Trâm mới
vừa ngáp vừa nói :
- Có con Hoa nó thành yêu , thành tinh như vậy , chớ con gái gì mà lăng
nhăng thế bao giờ .
Cô Lài cắt ngang :
- Ối ! Nói làm chi chuyện xấu xa nớ mà nói hoài !
Tuấn lại hỏi cô Thục , cô lưng quần đỏ và giây lưng đỏ . Cô này theo đạo
Thiên Chúa .
- Còn cô Thục , cô nghĩ sao ?
Thục đỏ mặt tía tia , hai mí mắt cứ chớp lia lịa . Cô mắc cỡ không nói , hỏi
mãi cô mới trả lời :
- Chúa không tha cho những tội lỗi như vậy đâu .
Tóm lại , thân lắm mơí được nghe các cô nữ sinh tỏ bày “ quan điểm “ và
tất cả đều cương quyết kết tội thầy trợ Liên và cô học trò lớp Nhì .
Cả thành phố không có được một người đàn ông nào lên tiếng bào chữa cho
thầy trợ giáo , hoặc một người đàn bà , một cô gái , bênh vực cho cô học trò
lớp Nhì .
Trong hoàn cảnh “ thuần phong mỹ tục “ của xã hôị An nam 1924 như vừa
phác họa , thật không có chỗ nào cho một tình duyên tự do lãng mạn . Tôi
đã nói “ thế hệ ấy chưa dám dùng chữ “ yêu “ và chưa có ai dám thực hiện
“ tình yêu “ sỗ sàng công khai .
Ðôi “ trai gái “ chỉ nói “ thương “ nhau . Chữ “ thương “ấy có thể chứa
đựng một cảm tình rất thiết tha , nhưng vẫn lén lút , gìn giữ , sợ sệt . Cho
nên có câu thông dụng “ thương vụng nhớ thầm “ và truyền thống tình cảm
vẫn chặt chẽ ở Trung kỳ cũng như ở Bắc kỳ và Nam kỳ , ở thành thị trong
đám trí thức và thanh niên Tây-học cũng như ở hương thôn .
Bây giờ tôi xin kể chuyện một thầy Trợ giáo lớp Năm , thật là buồn cười .
Không phải là một vụ trai gái , mà là một vụ “ cộng sản “ . Năm 1924,
Cộng sản đã bắt đầu tuyên truyền bí mật trong các giới gọi là “ trí thức “
nhất là giáo giới . Dĩ nhiên là “ Quan Tây “ và “ Quan An nam “ không hề