sùng bái, để thờ . Cho nên những bạn bè của Tuấn và Tuấn đều triệt để tuân
theo những lời giáo huấn của cụ , say mê đọc các thi văn của cụ , coi những
bài những sách của cụ viết ra như những lời châu ngọc .
Ðến Huế ngày đầu tiên , Tuấn đến thăm cụ Phan Bội Châu , và sau khi đã
được chiêm ngưỡng dung nhan của cụ , được vinh dự hầu chuyện trên ba
tiếng đồng hồ với cụ , được cụ hỏi han khuyên bảo , Tuấn được hoàn toàn
thỏa mãn .
Suốt mấy ngày đi thăm các thắng cảnh ở Huế , Tuấn vẫn không rời khỏi
hình ảnh cao siêu lẫm liệt của cụ Phan Bội Châu . Sông Hương núi Ngự ,
cầu Bạch Hổ hồ Tỉnh Tâm , điện Hòn Chén , các lăng tẩm của các vị
Hoàng đế quá cố đều chỉ là những cảnh đẹp nên thơ , tuy là hùng tráng , vĩ
đại như không thể nào thanh cao tráng lệ bằng túp lều ba gian của cụ Phan
ở Bến Ngự .
Tuấn muốn trở lại nhiều lần để được hầu chuyện cụ Phan , nhưng Quỳnh và
Tố bảo :
- Mầy đến đây thường sẽ bị bọn Mật thám và lính mã tà để ý theo dõi có
ngày ở tù đấy .
Tuấn ngại không dám đến nữa , nhưng mỗi buổi chiều mát thường rủ vài ba
đứa lên Bến Ngự , đi ngang qua trước cổng nhà cụ để nhìn vào .
Nhớ hôm đầu tiên đến viếng cụ , cụ bảo :
- Người Tây không mở nhiều trường để dạy dỗ con dân nước Nam cho nên
quốc dân còn thất học nhiều quá . Như thế bảo nước ta tiến bộ văn minh
sao cho kịp với các quốc gia trên thế giới ?
Do ý kiến ấy , về nhà trọ , tối Tuấn thử viết một bài luận thuyết nha đề là :”
Ở Trung Kỳ , nên cưỡng bách giáo dục “ . Trong bài Tuấn đòi hỏi người
Pháp bảo hộ phải mở rộng nền giáo dục cho toàn thể quốc dân , cho tất cả
mọi người An nam đều phải được đi học . Tuấn đổi một chữ trong câu của
chính trị gia Pháp :" Après le pain, l’instruction est le premier besoin de
people “ mà viết lại :” Sau cơm áo , giáo dục là nhu cầu thứ nhất của dân “ .
Viết rồi sửa đi sửa lại bốn tiếng đồng hồ mới xong . Tuấn đưa cho mấy đứa
bạn ở cùng nhà trọ xem . Ðứa nào cũng khuyến khích Tuấn , và bảo Tuấn
chép lại sạch sẽ để sáng hôm sau đem đến toà báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh