Q
Quan tám cũng ừ quan tư cũng gật – Quan tám là một quan và tám
tiền (quan gồm 10 tiền, trung bình mỗi tiền là 60 đồng) ; (một quan là 600
đồng tiền). Quan tư là một quan và bốn tiền. Quan tám cũng ừ, quan tư
cũng gật là người ta trả cho quan tám cũng bằng lòng mà trả cho quan tư
cũng nhận, ý nói không có chủ-định (như nhà buôn không có giá nhất
định), hoặc người ta bảo nộp quan tám cũng vâng, bảo nộp quan tư cũng
gật, ý nói hoàn toàn thụ-động không có chủ-kiến gì. Người ta thường dùng
câu này để tả người hiền lành đần độn.
Quan xa, bản nha gần – Quan là ông quan. Bản-nha là bàn giấy ông
quan hoặc nhân viên làm việc trong bàn giấy đó. Ông quan thường ít khi
trực-tiếp giao-thiệp với dân nên gọi là xa. Mọi việc đều do bản-nha giao
thiệp với dân ; cho nên gần dân. Đại ý nói quan thì xa nên không sợ bằng
bản-nha ; hoặc : người ta phải đối xử tử-tế với nha lại hơn là đối với ông
quan. Câu này nêu cái thế-lực của nha lại đối với nhân-dân thuở xưa.
Quít làm cam chịu. – Quít là quả quít. Cam là quả cam. Cam và quít
thuộc cùng một loài, chỉ khác nhau ở chỗ lớn, bé. Việc là do Quít làm mà
Cam phải chịu trách-nhiệm, là vì người ta lầm cam với quít, nên cam chịu
tội oan. Người ta thường dùng câu này để nói sự phải tội oan.
Quen mui thấy bùi ăn mãi – Mui tức là mùi nói trạnh đi. Mùi đây là
vị thức ăn. Bùi là ăn dòn, ngon và không béo (như thịt nạc, ăn lạc). Quen
mui thấy bùi ăn mãi nghĩa là quen mùi rồi, thấy thức ăn ngon bùi thì cứ tì tì
ăn mãi. Nghĩa bóng, câu này có ý nói thấy có lợi thì đào xới mãi, thấy dễ
xoay tiền thì nặn bóp không tha.
Quen việc nhà nạ, lạ việc nhà chồng – Nạ, tiếng cổ nghĩa là mẹ.
Quen việc nhà nạ, lạ việc nhà chồng : Con gái thường quen công việc nhà
bố mẹ đẻ. (vì ở với cha mẹ từ bé chí lớn) mà lạ-lùng bỡ-ngỡ đối với công
việc nhà chồng (Vì mới về làm dâu).