nước. Được vài năm, Tân lấy vợ rồi mua máy khâu, mở hiệu rồi chí thú làm
ăn không đi nữa. Nhưng gặp anh em, Tân vẫn giúp. Tân nghiện uống chè
buổi sáng. Đồng chí tâm huyết đến, uống chè nói chuyện cảm khái. Ai hỏi:
“Anh thôi làm cách mệnh rồi a?” thì Tân khóc. Có khi uống rượ đập bát,
đập chén hẹn lại một phen vẫy vùng. Rồi đồng chí ấy đi. Còn Tân tỉnh rượu
rồi lại cặm cụi đạp máy khâu. Lâu dần thành quen, dính vào cái máy khâu
và vợ con, ý chí cách mệnh chỉ còn phảng phất, trong mỗi lần giúp đỡ anh
em đồng chí qua lại.
Bùi thì khác.
Năm trước, xong lớp huấn luyện của Đồng chí hội ngoài Quảng Đông,
nhiều đồng chí được phân công trở về nước hoạt động. Bùi tần ngần rồi nói
thật:
– Tôi không về.
Sau đó, Bùi xuống biên giới, mở lò may, đoàn thể cũng yêu cầu Bùi giúp
luôn cho việc liên lạc cách mệnh ra vào. Bùi làm công tác ấy rất hăng hái.
Bùi đã chạy cơm gạo cho ba lớp huấn luyện của Đồng chí hội ở Bản Đảy.
Nhưng điều khiếp nhược kia đã thốt ra với câu “tôi không về” vẫn là một
giày vò và một ám ảnh theo mãi, mỗi lần giật mình nghĩ đến hay có ai nói
động đến.
Bùi chạnh lòng điều ấy.
Lúc đó, Bùi đã trừng mắt nhìn Tư. Thấy thế, Sơn mắng át Tư:
– Không đi thì mặc mày, chưa chi đã nói chõ!
Rồi Sơn cười xoà:
– Tôi ấy à, máy lên Nam Ninh thì tôi theo lên, con nhà thợ ở đâu phải có
cái kìm cái búa mới chịu được.
Tân hăng hái:
– Tôi đã cho vợ, con về trong làng rồi.
Bùi không vặc với Tư nữa, nhưng Bùi tái mặt, nói trịnh trọng khác
thường, như tuyên bố: