TƯỚNG VỀ HƯU - Trang 65

THƯƠNG NHỚ ĐỒNG QUÊ

Tôi là Nhâm. Tôi sinh ở làng quê, lớn lên ở làng quê. Đi trên

đường Năm nhìn về làng tôi chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng
vàng. Xa mờ là vòng cung Đông Sơn, trông thì gần nhưng từ làng tôi
đến đấy phải năm mươi cây số. Làng tôi gần biển, mùa hè vẫn có
gió biển thổi về.

Tháng Năm âm lịch là mùa gặt. Mẹ tôi, chị Ngữ, chú Phụng với tôi

ra đồng từ mờ sáng. Ba người gặt, còn tôi gánh lúa.

Tôi gánh lúa về nhà, đi men theo đường mương. Nắng gắt

lắm, ngoài trời có lẽ phải bốn mươi độ. Bùn non bên vệ mương nứt
nẻ, bong cong lên như bánh đa.

Tôi mơ mộng lắm, hay nghĩ. Bố tôi là thiếu tá, cán bộ trung

cấp kỹ thuật hải quân, vẫn đi ra các đảo lắp ra đa với máy thông tin,
mỗi năm về phép một lần. Bố tôi thuộc hết tên các đảo. Mẹ tôi
chẳng bao giờ đi xa khỏi làng. Mẹ tôi bảo: “ở đâu chẳng thế, chỗ nào
cũng toàn là người”. Chú Phụng thì khác, chú Phụng đã đi nhiều nơi,
chú Phụng bảo tôi khi chỉ có hai chú cháu với nhau: “Trong thiên hạ
không phải chỉ có người đâu, có các thánh nhân, có yêu quái”. Nhà
chú Phụng toàn phụ nữ: mẹ vợ, vợ, bốn đứa con gái. Chú Phụng đùa:
“Chú đẹp giai nhất nhà”.

Chị Ngữ là chị dâu tôi, lấy anh Kỷ. Anh Kỷ đang làm công nhân

trên mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng. Chị Ngữ là con ông giáo Quỳ.
Ông giáo Quỳ có nhiều sách. Mọi người vẫn bảo ông là “đồ gàn”, lại
bảo ông là “lão dê già”, “Quỳ dê”. Ông giáo Quỳ có hai vợ, vợ cả sinh
ra chị Ngữ, chị dâu tôi. Vợ hai là thím Nhung, vừa là thợ may, vừa bán
quán, sinh ra thằng Văn bạn tôi. Thím Nhung trước kia là gái giang

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.