không em?” Hàng phở, hàng giải khát. La liệt là những sạp hàng
quần áo, giày dép, đường sữa, thuốc lá. Ô tô chạy xuôi chạy ngược.
Trời rất trong. Nắng bừng bừng. Cả phố huyện say nắng.
Tiếng còi tàu hú từ xa dè dặt, vui mừng. Có ai nói to: “Tàu về”.
Cả phố huyện vẫn mơ màng. Lại có ai gắt lên: “Tàu về”. Tiếng còi
tàu hăm dọa, chói óc. Mọi người bỗng nhiên rối rít, cuống cuồng.
Những bà, những chị, những đứa trẻ bán hàng rong chạy xuôi chạy
ngược. Tiếng rao hàng chen nhau: “Nước đây! Ai bánh nào! Ai nước
nào! Ai bánh nào! Ai nước nào!”
Tôi dắt xe đứng một chỗ nhìn. Người trên tàu ra đứng ngồi ngổn
ngang ở ngay bậc cửa. Đây là ga lẻ. Đồng quê tôi vô danh. Nơi tôi
đứng đây vô danh.
Khoảng hơn chục người lần lượt qua cổng soát vé. Tôi nhận ra
mấy thầy cô giáo cấp ba trường huyện. Bộ đội. Mấy người buôn
chuyến. Mấy người thợ sắt. Một ông to béo, đeo kính râm, mắt
kính vẫn còn dán tem. Một thanh niên cao, gầy, tóc rễ tre, đôi mắt
tư lự. Tôi biết người này. Đấy là nhà thơ Văn Ngọc. Sau anh Ngọc là
một cặp vợ chồng già. Quyên.
Quyên xõa tóc, mặc áo pun, quần gin, đeo kính, khoác túi. Quyên
trông khác hẳn mọi người bởi toàn bộ thần thái toát ra.
Quyên qua cửa soát vé, nhìn quanh. Nhận ra tôi ngay. Quyên bảo:
“Tôi là Quyên. Có phải cô Lưu dặn anh đón tôi không?” Tôi bảo:
“Vâng”. Quyên cười: “Cám ơn anh. Anh là thế nào với cô Lưu? Anh
tên gì?” Tôi bảo: “Tôi là Nhâm, con ông Hùng”. Quyên hỏi: “Thế anh
có họ hàng gì với tôi không?” Tôi bảo: “Không”. Quyên gật đầu:
“Tốt. Cô Lưu thuê anh à?” Tôi nhìn cái bóng tôi sẫm trên nền xi
măng. Tôi, thân phận tôi, ở đâu người ta cũng nhận là kẻ làm thuê,
làm mướn.