Qua nhà thím Nhung, tôi dừng lại. Ngôi nhà nhỏ nép ven đường.
Phên liếp hé mở. Một bóng người vội vã lách ra. Người ấy trông
trước trông sau rồi vụt chạy nhanh khuất sau bụi duối. Trộm
chăng? Tôi định kêu lên thì nhận ra chú Phụng. Một lát, thím Nhung
mở cửa bước ra, vẻ bình thản, mặc bộ đồ váy ngủ phong phanh.
Thím Nhung hơn ba mươi tuổi, người cân đối, xinh đẹp.
Tôi xách giỏ ếch đi sau chú Phụng. Đến chỗ rẽ, chú Phụng ngoái
lại thấy tôi. Chú Phụng hỏi: “ếch có nhiều không?” Tôi không trả
lời. Chú Phụng thoáng giật mình. Chú căn vặn: “Mày sao thế?” Tôi
bỗng thấy buồn da diết. Tôi buồn cho thím Nhung, buồn cho
chú Phụng, cho ông giáo Quỳ. Tôi buồn cho tôi.
Chú Phụng bỏ đi, vẻ bất cần. Tôi về nhà. Hóa ra cũng chỉ có
khoảng hai chục con ếch. Chị Ngữ bảo: “Chẳng bõ. Thế mà cũng đi
suốt đêm”. Mẹ tôi cười: “Chắc cu cậu vừa bắt ếch, vừa ngủ gật”.
Cái Minh sửa soạn đến trường để sinh hoạt hè. Nó mặc quần phăng
xanh, áo trắng, đây là bộ diện nhất mà nó chỉ mặc trong dịp hội hè.
Cái Minh ghé tai tôi bảo: “Em biết anh đi đâu rồi, nhưng em không
nói. Không phải anh đi bắt ếch”. Cái Minh cười. Tôi nhìn vào mắt
nó. Nó biết. Tôi đâu ngờ rằng chỉ vài giờ sau tôi đã phải khóc nó.
Nó biết, đơn giản vì gần như nó đã trải qua, thấu suốt. Đến lúc
ấy, lúc nó chết, chỉ còn hơn bốn giờ nữa để nó đùa cợt và ngộ cho
xong hết thảy mọi điều.
Mẹ tôi bảo: “Con mang mấy con ếch sang cho nhà bác giáo Quỳ
nhắm rượu”. Tôi bảo: “Vâng”. Nói xong đi tắm.
Mẹ tôi và chị Ngữ ra đồng rỡ lạc. Đấy cũng là công việc của tôi
buổi sáng.
Tôi xách xâu ếch qua nhà ông giáo Quỳ. Qua nhà dì Lưu thấy
Quyên gọi: “Anh gì ơi”. Tôi bảo: “Tôi là Nhâm. Cái Mị đâu rồi?”