- Ngũ Hồ cùng mười sáu viện đã có tên đặt gì chưa?
Ngu Thế Cơ tâu:
- Tiểu thần không dám tự tiện, xin bệ hạ hãy ban thánh ý.
Dượng Đế lại đến tận các nơi xem xét một hồi cẩn thận, rồi mới đặt tên
nhất loạt như sau:
- Đông Hồ, bởi bốn bề trồng toàn liễu biếc, lại thấy rõ hai ngọn núi xanh,
nổi giữa sóng bạc dập dờn, nên đặt là hồ Thúy Quang.
Nam Hồ, bởi lắm gác cao liền bến, bóng đổ mặt nước lung linh, bèn ban tên
hồ Nghênh Dương.
Tây Hồ, bởi có phù dung soi bóng, cúc vàng đầy núi, lại thêm cò trắng âu
xanh, nhởn nhơ đi lại, nên đặt là hồ Kim Quang.
Bắc Hồ, nhân có nhiều đá trắng kỳ hình dị dạng, cao thấp nhấp nhô, ẩn hiện
mặt hồ, gió qua sóng gợn, xao xuyến lòng người nên đặt tên hồ Khiết Thủy.
Trung Hồ, riêng bốn bề bát ngát, trăng chiếu mặc đầu, trời nước một màu,
phải đặt là hồ Quang Minh.
Viện thứ nhất, gác cao mở hướng nam, gió ấm luôn luôn qua lại, nên ban
tên viện Cảnh Minh.
Viện thứ hai, nhân có lan can màu đỏ quanh co uốn lượn, cửa sổ gấm hàng
hàng lối lối, mặt trời mới hé, trăm hoa đua sắc, bèn có tên viện Nghênh
Huy.
Viện thứ ba, bởi có mấy gốc ngô đồng xanh biếc, bóng che thấp thoáng, gió
thu qua lá, xào xạc bên tai, phải đặt tên viện Thu Thanh.
Viện thứ tư, bởi trồng toàn mai Tây Kinh đưa về, hoa nở chẳng khác mây
sớm, lấy tên là viện Thần Quang.
Viện thứ năm, vì huyện Toan Tảo tiến một gốc ngọc lý, loài hoa trắng một
màu, hơn cả mây bông, bèn ban tên viện Minh Hà.
Viện thứ sáu, bởi có mấy cây tùng già, tán tròn như lọng, bóng yên khắp
viện, thành tên viện Thúy Hoa.
Viện thứ bảy, bên bờ nước có phiến bàn thạch, rêu biếc đã in, hoa văn
ngang dọc, chẳng khác địa đồ xứng tên viện Văn An.
Viện thứ tám, vì hạnh vì đào giăng thành bình phong như gấm như lụa, hoa
phô thêu nhị, nước chảy tựa đàn, oanh non tấu sáo, nên tên viện Tích Chân.