cuộc gặp mặt ở những suối cũ hay suối mới, vả lại, hiếm có những dạ hội ở
miền núi kéo dài cho đến khuya. Những thứ ấy tạo cho cô một cơ thể lành
mạnh, đầy sức lực, dù cho thân hình phải đóng khung trong bộ áo cổ truyền
thường thấy ở các geisha: háng thì hẹp nhưng bụng thì lại cồn lên. Có chút
gì đó nao lòng khi Shimamura cảm động nghĩ rằng vì người đàn bà này mà
anh phải lặn lội từ xa đến đây.
- Em tự hỏi liệu em có con được không nhỉ? - Cô tâm sự với anh, như thể
ngỏ ý muốn hỏi anh rằng, chung thủy với một người đàn ông thôi, liệu có
giống như lấy chồng không?
Và shimamura lần đầu tiên nghe cô nói về “người đàn ông duy nhất”
trong đời mình. Cô quen hắn ta từ khi mười sáu tuổi, cô bộc bạch, điều đó
khiến Shimamura hiểu rằng giờ đây cô ít cưỡng lại anh, sự buông thả khiến
anh hơi ngỡ ngàng từ đó.
Cô giải thích, cô chẳng hề cảm thấy quyến luyến “người ấy” cả xác thịt
lẫn tình cảm, và có lẽ mọi chuyện xảy ra đều gốc gác từ việc cô gầy mòn đi
ở miền biển, ngay sau cái chết của người đã hoàn lương cho cô.
Shimamura nhận xét:
- Ở với nhau được năm năm, hẳn không thể là mối liên hệ giản đơn. Đó
là một khế ước.
- Đã hai lần, em có thể dứt bỏ được “người ấy”. Đó là khi em đến đây
làm geisha và em chuyển nhà sau cái chết của bà giáo dạy nhạc. Nhưng em
không có gan làm chuyện đó, em không quyết đoán được.
“Người ấy” ở miền biển, cô nói, nên giữ cô ở lại đó cũng hơi khó. Do đó,
hắn ta đã gửi Komako cho bà giáo dạy nhạc, khi bà ta quyết định trở về đất
núi này. - Hắn ta cũng hào hiệp, - Komako nói tiếp. Hắn lúc nào cũng tỏ ra
tử tế và cảm mến em và em cũng ân hận rằng mình không thể yêu hắn
được, không thể để hồn và xác thuộc về hắn.
Cô cho biết hắn hơn cô rất nhiều tuổi và họa hoằn mới đến thăm cô.