nhìn quanh một chút, tự hẹn sẽ dành một buổi quét dọn trước khi Tết đến.
Rồi anh trở xuống, qua ngồi nói chuyện với ông thợ sửa mũ dưới gốc cây
có tàn lá thấp bốn mùa che nắng.
Còn nhớ dạo mới dọn về khu phố này, ngày ngày từ trên gác trọ xách
cặp ra cửa, Minh vẫn thấy ông thợ sửa mũ gật đầu chào anh bằng một cân
thân tình:
- Thầy đi làm ạ!
Lúc đầu Minh không để ý chỉ xãgiao chào lại. Người có chữ nghĩa, làm
việc văn phòng như Minh thời ấy rất hiếm, nên được xã hội trọng vọng gọi
bằng "thầy", như "thầy thông", "thầy ký" v.v... Ngày ngày đứng trong cửa
sổ căn gác ngó xuống đường, dù muốn dù không, Minh cũng phải nhìn ông
ta ngồi trên chiếc ghế gỗ bên cạnh cái mũ len, nỉ, những chiếc nón cói màu
trắng hoặc bọc vải kaki vàng nhạt khách đem tới sửa. Tuổi khoảng 40, mặt
mũi khắc khổ, nước da xạm đen. Dáng người gầy gò và lưng hơi khòm có
lẽ lao động vất vả từ nhỏ. Toàn thân ông chỉ được vầng trán khá cao và ánh
mắt toát ra vẻ thông minh, tư lự. Bạn hàng xung quanh gọi ông là ông Sửu.
Trẻ con thì kêu thẳng ông là Sửu què.
Nghề sửa mũ của ông Sửu chắc không khá, bởi khách hàng vào ra thưa
thớt. Huống chi ông bị tật ở một chân, bước đi khập khiễng khó khăn. Một
người tầm thường như thế đáng lý ra thì chỉ là một bóng mờ như bao người
khác giữa phố phường, chẳng bao giờ được Minh chú ý. Nét đáng yêu duy
nhất Minh thấy ở ông chỉ vì một lý do đơn giản là ông nói năn lễ phép. khác
hẳn những người lao động chân tay mà Minh thường hay tiếp xúc, lúc nào
cũng lạnh nhạt với Minh.
Một hôm Minh ghé quầy thuốc lá ngay bên cạnh quầy mũ của ông Sửu.
Minh giật mình kinh ngạc thấy ông chăm chú đọc cuốn sách viết về tư
tưởng Mạc Hữu Vy và Lương Khải Siêu do Nam Đồng Thư Xã ấn hành.
Thời bấy giờ, người biết chữ còn rất hiếm, nhất là trong giới thợ thuyền.