Chú thích:
(*): cửa Bắc (theo tài liệu của Hội Sử học Việt Nam) tại thành Hà
Nội thời Nguyễn chính là Bắc Môn của thành Thăng Long xưa. Vị trí
Bắc Môn được duy trì từ thời Lý tới nay. Thành cổ hiện thuộc
phường điện Biên, quận Ba đình, với tổng diện tích 49.135m2.
Những điều này, trước đây đại úy Q. không biết và cũng không mấy
quan tâm, ngay cả khi đã tốt nghiệp chuyên ngành kiến trúc lẫn lúc
còn đi nghĩa vụ ở Trường Sa. Còn nhỏ, nhà ngay gần cửa Bắc, Q. vẫn
thường cùng đám bạn ra chơi, Q. Đã thuộc đến từng viên gạch. Lớn
lên một chút mới biết: Vọng lâu trên cổng có chỗ thờ Nguyễn Tri
Phương và Hoàng Diệu. Có lần đi với bà ngoại qua đây, bà nói gì đó
hay hay, giờ chỉ còn láng máng. Hình như rằng: “Bể đông, giậu Bắc
rào chắn cẩn thận chẳng bao giờ thừa”. Lúc đó, Q. nhìn vào lỗ hoắm
đại bác trên tường thành, chưa hiểu gì.
(1): Lời trong bài Thơ điếu Hoàng Diệu của Nguyễn Trọng Tỉnh,
ghi lại trong cuốn Lịch sử vua quan nhà Nguyễn - tác giả Phạm Khắc
Hòe. Vài năm sau cái đêm mưa tháng Bảy đó, đại uý - kiến trúc sư
Q. Đọc được bài thơ điếu. Mắt rưng rưng nhìn trời xanh.
(2): Di biểu của Hoàng Diệu, do ông cắn ngón tay lấy máu viết
ra (những câu trong ngoặc đơn, chữ nghiêng ở trên). Ít lâu, Q. tìm
thấy tài liệu về di biểu này và nghĩ tới đề tài xây dựng lại Võ Miếu,
bụng nhủ thầm: Nếu xây lại được thì có lẽ không bày tượng Quan
công, mà thờ đức ông Hoàng Diệu hoặc đức Thánh Trần. Tìm địa
điểm xưa của Võ Miếu thì chưa xác định được chính xác. Hỏi về cây
đa cổ thì biết trước có một cây mấy trăm năm tuổi nằm trong khuôn
viên đại sứ quán láng giềng.
(3): Một năm sau ngày Hoàng Diệu tuẫn tiết, vua Tự đức cũng
băng hà. Ngay sau đó không lâu, người Pháp cho vẽ lại bản đồ,
khẳng định thuộc địa. Hình dáng núi, sông, biển, đảo Việt Nam vẽ
ra rõ từng khúc.
(4): Theo cụ Tô, một nhà nghiên cứu lịch sử và am tường dã sử
nói rằng, nhiều khả năng đó là trấn yểm của phương Bắc nhằm cắt
long mạch nước Nam, có thể từ thời cao Biền, cũng có thể cách nay