dạo đầu, rồi khỏa những nhịp thưa, dồn nhịp mau. Bàn tay, cánh
tay, khuôn mặt căng tức máu, đỏ bầm. Mống mắt mọng như trăm
năm lệ đọng. Y đánh trống, chơi trống hay múa trống? Không biết!
Nhưng toàn thể phách thăng hoa tột độ. Âm thanh rung lên bởi từng
ngóc ngách ruột gan, xương thịt. Mái đầu vung xoáy. Dải lụa thiên
thanh xoay cuồng xoắn lốc. Dùi quất muốn cháy mặt thưng. Hoàng
Diệu lặng hồi lâu trong tiếng trống. Rồi người xá tạ tên lính trống ba
xá. Tri ân! đi!
Từ bao giờ, trên hốc mắt thấy đọng hai giọt lệ. Đỏ như hai giọt
hồng lạp.
Liên miên những hồi đổ. Âm trống hối buốt, sôi quặn, hừng
hực. Âm siết, tiếng thét. Âm tốc, móng chiến mã guồng. Âm tang,
giáo gươm lâm chiến. Âm táng, thần công nổ. Âm phất, gió trận kỳ...
Ngoài xa, hình như quân Phú Lãng đang dừng bước, đạn pháo cũng
ngưng...
Hoàng Diệu tới cửa Võ Miếu. Cây đa cổ thụ bị đạn đại bác cháy
đen gần hết. Chỉ còn lại một nhánh vẫn tươi. Những búp đa tháng
Ba, nõn rói đỏ như vạn ngòi bút lông ngậm đẫm mực son. Người
thắp một nén nhang xong, quay mặt tượng Quan công vào trong.
Ra sân, đức ông quỳ xuống, vái vọng về phương Nam.
... Phương ấy là thành Phú Xuân. Nơi có người mà ta không rõ
phải gọi là gì. Một vua Tự đức mà ta vẫn thờ một dạ. Một Hồng
Nhậm tri âm trọng nhau tài thi phú. Một kẻ đứng đầu triều đình bạc
nhược, cam lòng bội tín với tôi trung. Không biết giờ Hoàng thượng
đã tự khắc bia sử xong chưa?
Phương ấy là làng Xuân đài, nơi có hai nấm mồ cha, mẹ. Bao lâu
rồi ta không về thắp lấy một nén nhang.
Phương ấy là vợ hiền, đếm ngày được ở bên chồng còn ít hơn
những năm làm vợ, lấy việc thờ nghiệp binh lửa của chồng bù cho
nghĩa tao khang. Là các con ta, vì không được gần cha, phải lấy
Trung làm Hiếu.
Gan ruột này ai hiểu? Lòng đỏ thôi đành phơi dưới ánh nhật
minh.