bức đến như thế này, nhưng con cháu chúng tôi vẫn còn thân thiết với nhau.
Chẳng phải là cháu Hoằng đang tưởng nhớ đến Thủy Sinh đó ư? Tôi mong
ước chúng nó sẽ không giống chúng tôi, không bao giờ phải cách bức nhau
cả... Nhưng tôi cũng không muốn chúng nó vì thân thiết với nhau mà phải
vất vả, chạy vạy như tôi, cũng không muốn chúng nó phải khốn khổ mà đần
độn như Nhuận Thổ; cũng không muốn chúng nó phải khốn khổ mà tàn
nhẫn như bao nhiêu người khác. Chúng nó cần phải sống một cuộc đời mới,
một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống.
Tôi nghĩ đến những niềm hy vọng, bỗng nhiên hoảng sợ. Khi Nhuận
Thổ xin chiếc lư hương và đôi đèn nến, tôi cười thầm, cho rằng anh ta lúc
nào cũng không quên sùng bái tượng gỗ.
Nhưng bây giờ, điều tôi đang gọi là hy vọng đây, biết đâu không phải
là một thứ tượng gỗ tự tay tôi chế tạo ra? Có khác chăng là những điều anh
ta mong ước thì gần gũi , còn những điều tôi mong ước thì xa vời đó thôi.
Tôi đang mơ màng, thì trước mắt tôi hiện ra cảnh tượng một cánh
đồng cát, màu xanh biếc, cạnh bờ biển; trên vòm trời xanh đậm, treo lơ
lửng một vừng trăng tròn vàng thắm. Tôi nghĩ bụng: Đã gọi là hy vọng thì
không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường
trên mặt đất; kỳ thực, trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì
thành đường thôi.
Tháng Giêng năm 1921