quê miền Bắc, mà về miền Nam, thì cũng chỉ như một người khách thôi,
nên dù tuyết miền Bắc khô và bay vũ như bụi phấn, hay là tuyết miền Nam
ướt đẫm và bám chặt vào cỏ cây, tôi cũng thấy đều chẳng có quan hệ gì với
mình cả. Tôi hơn buồn, nhưng lại uống một ngụm rượu rất khoái chí. Rượu
rất ngon, đậu cũng rán thật khéo, chỉ tiếc món tương ớt không mùi mè gì,
người thành S vốn không thích ăn cay.
Có lẽ vì đang giữa buổi chiều chăng, thành ra nói là quán rượu, nhưng
lại chẳng có vẻ gì là quán rượu cả. Tôi đã cạn ba chén rồi, mà ngoài tôi ra,
bốn chiếc bàn kia vẫn bỏ trống. Tôi nhìn xuống mảnh vườn hoang, dần dần
cảm thấy cô đơn, nhưng lại muốn đừng có ai tới nữa. Thỉnh thoảng nghe
tiếng bước chân lên thang gác là tự dưng tôi lại buồn, đến khi thấy là anh
hầu sáng thì mới yên tâm. Thế là lại uống thêm hai chén nữa.
"Lần này chắc là khách!" tôi nghĩ bụng như thế, vì nghe tiếng bước
chân khoan thai hơn bước chân anh hầu sáng. Xem chừng người đó đã lên
hết thang gác thì tôi có vẻ như sợ sệt, ngửng đầu lên nhìn cái ông khách
cũng đến đây uống rượu như mình và chẳng liên quan gì đến mình cả.
Nhưng tức thì, tôi hết sức ngạc nhiên, đứng dậy. Tôi không ngờ lại được
gặp ở đây một người bạn, nếu quả anh ta bây giờ vẫn cho phép tôi gọi là
bạn. Người vừa đi lên đó rõ ràng là một người bạn đồng song của tôi và
cũng là người bạn đồng nghiệp của tôi, hồi tôi còn là một nhà giáo. Diện
mạo tuy có hơi đổi khác, nhưng thấy là nhận ra ngay, chỉ có cử chỉ thì chậm
chạp vô cùng, thật chẳng giống chút nào với anh Lã Vĩ Phủ nhanh nhẹn,
hoạt bát ngày trước cả.
- À, anh Vĩ Phủ! Anh đấy à? Tôi thật không ngờ lại được gặp anh ở
đây!
- A, a! Anh? Tôi cũng không ngờ...
Tôi liền mời anh cùng ngồi. Anh có ý ngần ngừ một chút rồi mới ngồi
xuống. Lúc đầu, tôi rất lấy làm lạ, sau đó thì hơi buồn, không làm sao vui