cái ghế đẩu và đứng đợi. Bàn tay đưa lên che miệng, gương mặt hẹp vàng
vọt trông càng ít thân thiện hơn bao giờ hết, người đàn bà nhìn nó một lúc
lâu. Rồi bà ta quay sang nhìn chồng.
“Ờ, đêm nay trời lạnh”, bà ta nói, “nhưng ông sẽ ấm lại khi đi bộ, không
cần đến tấm chăn da cừu”. Khi nghe nói tới từ lạnh, gã chồng quay lại và
nhấc tấm màng che của một cánh cửa sổ nhỏ lên. Hắn đưa tay dụi mắt rồi
nhìn ra.
“Lạnh!” hắn nói. “Trời rét cóng. Mặt trăng như một tảng bạc còn sương
mù thì đặc như thỏi sắt, ngoài ra”, hắn càu nhàu, “”một cái chợp mắt không
phải là một giấc ngủ, và tôi sẽ không nhấc chân nửa bước cho tới khi trời
sáng”.
Cả hai cãi nhau một lúc, còn Dick thì lắng nghe. Nhưng cuối cùng, sau
khi mở cánh cửa song sắt ra và khoá trái nó trong đó, chẳng để lại thứ gì
cho nó qua đêm, ngoài ngọn lửa làm bầu bạn, họ rời khỏi nó hẳn, như Dick
hy vọng. Nhưng chỉ một lúc sau, người đàn bà quay trở lại, trong tay cầm
một sợi dây xích.
“Cứ phải thế!” bà ta nói, tròng cái vòng vào cổ chân nó và khóa lại. “Vậy
nhé! Nó đã giữ an toàn cho con két già Poll của ta suốt nhiều năm, vì vậy
nó cũng sẽ giữ cậu an toàn cho tới sáng!”
Bà ta khom xuống để cột đầu kia sợi xích quanh chân một cái bàn lớn.
Rồi bảo, “Cứ ngủ đi, chàng trai, trong lúc có thể, ngủ ngon vào. Cậu sẽ cần
đến mọi trí khôn của mình vào sáng mai”.
Tiếng bước chân của bà ta tắt hẳn. Nhưng khá lâu sau đó Dick vẫn nghe
thấy giọng nói của cả hai thì thầm trong bóng đêm sâu trên đầu, dù bản
thân nó chẳng có gì để suy nghĩ. Sau khi cố gắng một cách vô ích để giải
phóng cái chân nó khỏi sợi dây xích, nó xem xét trong vòng khả năng cho
phép với sự trợ giúp của cái ghế đẩu những ổ khóa và chốt cửa trên mọi
cánh cửa sổ chắc chắn bằng gỗ sồi. Nó cho rằng những bức tường của căn
bếp này phải dày ít nhất ba mét và những cái chốt cửa cũng to tương ứng.