Maria ấn thật mạnh, cho tới khi những khớp ngón tay trên hai bàn tay
mũm mĩm của bé trở nên trắng bệch, còn mặt của bé thì đỏ bừng như mận
chín. Nhưng chả có gì phun ra cả. Thế là ông Pratt đặt đôi tay to bè màu
nâu lên đôi tay của nó, nắm lấy cái ống tuýp, rồi cả hai cùng ấn. Và một
chùm tia nước nhỏ mảnh mai như một đám mây nhỏ phun ra khỏi miệng
vòi.
“Nó phun ra rồi, bé Maria reo lên đắc thắng. “Cháu có thể làm nếu cháu
thật sự cố gắng. Xin nói cho cháu biết, ông làm thế để làm gì?”
“À, đó là những bí mật,” ông Pratt đáp.
“Ồ,” bé Maria nhại theo ông, “cháu cũng có một bí mật đây.”
“Đó là gì thế?” Người thợ làm vườn hỏi.
Cô bé giơ một ngón tay về phía ông. “Cháu-vừa-nhìn-thấy-một-con-ruồi.
Nó có đôi cánh giống như ông nhìn thấy dầu loang trên mặt nước, và một
cái mặt đỏ với đôi mắt màu bạc, và nó không bay vo ve hay làm chi hết, mà
chỉ đưa hai chân trước lên cào vào đôi cánh, rồi chà chà chúng. Rồi nó lắc
lư cái đầu, và rồi bắt đầu lại một lần nữa – nhưng cháu không có ý nói tới
tất cả những chuyện đó. Ý cháu là cháu đã nhìn thấy con ruồi – đã nhìn
thấy nó, ý cháu là vậy.”
“À,” ông Pratt nói, mồ hôi lấp lánh trên gương mặt nâu sậm của ông, và
đôi mắt ông xanh thẫm hơn mắt của bà Poulton, dù mặt trời và bầu trời
ghen tỵ đã tẩy đi phần lớn màu sắc của chúng. “À, một con ruồi? Và đó
cũng là một thứ gì đó để nhìn thấy. Nhưng còn những con bướm Meadow
Browns bé nhỏ xinh xắn ở đằng kia thì sao, và con bướm Painted Lady kia
nữa – im lặng, nào, nhìn kìa – trên cụm hoa cẩm quỳ đằng kia! Đó là một
vẻ đẹp. Và hãy nhìn tất cả những kẻ lang thang trên luống cải bắp mùa
đông đằng kia nữa. Chúng ta sẽ không có nhiều rau, cô chủ ạ, nếu cháu có
thể tiêu thụ dưới mức trung bình, nếu chúng có cái cách bé nhỏ của chúng.”
Bé Maria hoàn toàn có thể tiêu thụ dưới mức trung bình. Nhưng bé ghét
rau xanh. Bé ghét chúng nhiều như thể bé đã từng ăn chúng trên những cái
đĩa lạnh ở một thế giới khác. Thật kỳ lạ là không một ai có một nhận thức