nó có thể trắng ra, chẳng bao lâu nó sẽ có màu da sáng như một người mắc
chứng bạch tạng. Nó thật sự đang gánh chịu những nỗi đau to lớn.
Đầu tiên nó cầu nguyện để được trắng ra, gần như khóc nức nở trên
giường, mong đợi một cách vô ích vị thiên thần mà nó hy vọng sẽ hiện ra
từ bầu trời đầy sao để đáp lại lời nguyện cầu ngay lập tức. Rồi nó thôi
không ăn những lát bánh mì đen vốn dành cho nó, và sống bằng những mẩu
bánh mì trắng của Pháp mà ông chủ nó ăn còn thừa. Chế phục của ông bác
sĩ có màu xanh thẫm viền vàng. Nhưng Sambo được phép mặc một cái áo
khoác trắng vào buổi sáng – sau mười một giờ. Nó giặt và ủi phẳng cái áo
này mỗi tuần ba lần và mặc lên người bất cứ lúc nào ông chủ nó ra ngoài,
nhất là những hôm ông tới thăm bà cô Clara của ông và ở lại nghĩ đêm ở
đó. Sambo thường ngủ với tấm chăn trùm kín đầu vì e bóng đêm sẽ làm tối
thêm ngay cả nước da đen đúa. Nhưng tất cả những cố gắng kiểu đó chỉ là
vô ích.
Cuối cùng một sáng nọ – nhưng không phải là lần đầu tiên – nó nghe ông
bác sĩ nói tới chứng sốt ban đỏ, và ngay chiều hôm ấy chính nó phải mang
một chai thuốc lớn tới người bệnh đang mắc phải chứng sốt đáng buồn này.
Quý ông này sống trong một ngôi nhà vuông xung quanh phủ đầy dây
trường xuân và các loại dây leo, và Sambo có thể nhìn thấy những cái cửa
sập khép kín những cánh cửa sổ mà bên trong đó là người bệnh đang nằm
trên giường, đỏ ửng từ đầu tới chân – Sambo cho là thế.
Việc này nhắc nó nhớ tới một bệnh nhân khác của ông bác sĩ – một phu
nhân quê ở Mễ Tây Cơ bị bệnh sốt vàng da; và một cô bé có những lọn tóc
nâu vàng đã suýt chết vì bệnh đó, và sau đó đứa em trai bé nhỏ của cô bé đã
được mang tới cho ông bác sĩ vì chứng đau mắt đỏ. Cả ông chủ nó cũng có
lần thuê một bà đầu bếp da đen mà khi trăng tròn luôn bị ám ảnh bởi cái mà
bà ta gọi là “chứng sốt xanh”. Và không phải là thuốc của ông bác sĩ đã
chữa khỏi cho tất cả bọn họ hay sao? Sambo tự nhủ, nếu thuốc men có thể
loại bỏ những thứ ban đỏ, vàng da, mắt đỏ và da xanh, chắc chắn nó cũng
có thể tẩy được nước da đen lắm chứ?